Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân thường được sử dụng trong việc đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, trong trường hợp mua bán đất đai, văn phòng công chứng vẫn yêu cầu bên bán cung cấp giấy tờ này. Vậy việc yêu cầu này có căn cứ không? 

1. Về giấy xác nhận tình trạng hôn nhân

Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân có thể hiểu là việc cơ quan có thẩm quyền xác nhận tình trạng hôn nhân (đã kết hôn, ly hôn, độc thân,… ) của cá nhân. Với từng trường hợp yêu cầu cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân sẽ phải đáp ứng điều kiện khác nhau và phải được sử dụng theo đúng mục đích ghi trong giấy xác nhận. Giấy xác nhận hôn nhân không chỉ có ý nghĩa trong việc xác nhận người đó có quan hệ hôn nhân như thế nào mà còn là căn cứ để xác định tài sản chung, tài sản riêng của cá nhân.

2. Về việc chuyển nhượng QSDĐ

Căn cứ Điều 188 Luật đất đai 2013 quy định về điều kiện chung để thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất gồm:

a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;

b) Đất không có tranh chấp;

c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;

d) Trong thời hạn sử dụng đất.

Như vậy, về điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất không yêu cầu phải có giấy chứng nhận trình trạng hôn nhân của người chuyển nhượng.

Tuy nhiên, khoản 2 Điều 35 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định về việc chiếm hữu, định đoạt tài sản chung của vợ chồng nêu rõ: “Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau đây:a) Bất động sản; b) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu; c) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.”

Đối với việc chuyển nhượng tài sản chung của vợ chồng cần có văn bản thỏa thuận về việc đồng ý cùng chuyển nhượng tài sản đó. Việc chuyển nhượng QSDĐ mà không có văn bản thỏa thuận này sẽ làm hợp đồng vô hiệu do không đáp ứng điều kiện về mặt chủ thể của hợp đồng. Vì QSDĐ thuộc quyền sử dụng chung của cả vợ chồng, một bên không được tự mình định đoạt khi chưa được sự đồng ý của bên kia. Do đó, người chuyển nhượng (người bán) có trách nhiệm cung cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân để xác định phần đất bán đã có sự định đoạt của hai vợ chồng. Người mua không cần phải xuất trình giấy tờ này vì trong trường hợp QSDĐ chỉ đứng tên một người nhưng tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân thì vẫn được coi là tài sản chung của vợ chồng.

Như vậy, pháp luật hiện hành không có quy định trực tiếp nào bắt buộc người chuyển nhượng QSDĐ phải cung cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân nhưng trên thực tế tại các văn phòng công chứng đều yêu cầu cung cấp giấy tờ này. Việc yêu cầu cung cấp này là hoàn toàn có căn cứ. Trên cơ sở xác định rõ tài sản chuyển nhượng thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng của ai; người đó được quyền định đoạt tài sản hay không; việc chuyển nhượng có đáp ứng những điều kiện để một giao dịch có hiệu lực không,… việc cung cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân sẽ hạn chế tối đa những rủi ro pháp lý, những tranh chấp phát sinh không đáng có, đảm bảo quyền lợi cho cả bên mua, bên bán và bên thứ ba liên quan.

Bình Luận

© 2018 SAOVIETLAW.COM Bản quyền thuộc về công ty Công Ty Luật TNHH Sao Việt

logo-footer