Sự giống và khác nhau giữa việc khám xét theo thủ tục hành chính và thủ tục tố tụng hình sự như sau: 

Tiêu chí

Thủ tục hành chính

Thủ tục tố tụng hình sự

1. Căn cứ pháp lý

Điều 127, 128 và Điều 129 Luật Xử lý vi phạm hành chính

Điều 194, điều 195 Bộ luật tố tụng hình sự 2015

2. Căn cứ khám xét

Khám xét theo thủ tục hành chính được thực hiện khi có căn cứ cho rằng người vi phạm cất giấu trong người đồ vật, tài liệu, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính hoặc địa điểm đó có cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính

Khám xét theo trình tự tố tụng hình sự (khám xét người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện) được thực hiện chỉ khi nào có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện có công cụ, phương tiện phạm tội, tài liệu, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có hoặc đồ vật, dữ liệu điện tử, tài liệu khác có liên quan đến vụ án.

3. Thẩm quyền ra lệnh khám xét

- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, Trưởng Công an phường; Trưởng Công an cấp huyện; Trưởng phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Trưởng phòng Cảnh sát trật tự, Trưởng phòng Cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt...

- Thủ trưởng đơn vị cảnh sát cơ động từ cấp đại đội trở lên, Trạm trưởng Trạm công an cửa khẩu; Hạt trưởng Hạt kiểm lâm, Đội trưởng Đội kiểm lâm cơ động,...

- Chi cục trưởng Chi cục Hải quan, Đội trưởng Đội kiểm soát thuộc Cục Hải quan, Đội trưởng Đội kiểm soát chống buôn lậu và Hải đội trưởng Hải đội kiểm soát trên biển thuộc Cục điều tra chống buôn lậu Tổng cục hải quan; Đội trưởng Đội quản lý thị trường... (khoản 1 Điều 123 Luật Xử lý vi phạm hành chính).

- Trong trường hợp nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là chỗ ở thì những chủ thể nói trên đề nghị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định.

- Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp (trường hợp này, lệnh khám phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành); Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án, Phó chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử (điều 194 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015).

- Một số chủ thể khác thuộc lực lượng bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, kiểm ngư... được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quy định tại khoản 2 Điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng phải được Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn trước khi thi hành.

- Trong trường hợp khẩn cấp: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng,...; người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng cũng có quyền ra lệnh khám xét (quy định tại khoản 2 Điều 110 BLTTHS) nhưng trong thời hạn 24 giờ kể từ khi khám xét xong, người ra lệnh khám xét phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ việc, vụ án.

4. Nguyên tắc chung

- Trước khi khám phải thông báo hoặc đọc lệnh cho đối tượng bị khám biết.

- Đối với khám người thì nam khám nam, nữ khám nữ.

- Đối với khám phương tiện, nơi ở, nơi làm việc) thì phải có mặt người chủ sở hữu hoặc người quản lý và có người chứng kiến. Trường hợp không có chủ sở hữu hoặc người quản lý thì việc khám vẫn được tiến hành nhưng phải có đại diện chính quyền và hai người chứng kiến.

- Không được khám vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp hoặc việc khám đang được thực hiện mà chưa kết thúc nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.

- Việc khám phải được lập thành biên bản theo luật định.

Bình Luận

© 2018 SAOVIETLAW.COM Bản quyền thuộc về công ty Công Ty Luật TNHH Sao Việt

logo-footer