Xã T, huyện C, thành phố H có truyền thống trồng hoa phong lan. Những năm trước để tiêu thụ lượng hoa lan, các hộ thường tự liên hệ với các đầu mối trung gian để cung cấp sỷ chậu lan hoặc chở lan vào nội thành để bán lẻ. Vì không có một tổ chức, đoàn thể nào phụ trách thu mua nên lợi ích từ việc bán lan chơi cảnh ngày càng giảm.

Số tiền mà mỗi hộ trồng bỏ ra nhiều nhưng số tiền thu vào không được bao nhiêu do phải chia tỷ lệ phần trăm cao cho các đầu mối trung gian bỏ lan. Người dân trồng lan chán nản, một số đã chuyển sang trồng cây ăn quả, một số khác đang có kế hoạch chuyển đổi sang loại hình nông nghiệp khác để thu về lợi nhuận cao hơn. Nghề trồng lan bao đời của làng dần bị mai một.

Trước sự tình đó, để quảng bá cho nghề trồng hoa lan, lấy lại danh tiếng làng nghề truyền thống, tháng 1/2015, UBND xã T phối hợp với công ty quảng cáo B tổ chức hội chợ triển lãm hoa lan trong vòng 10 ngày. Do địa điểm tổ chức hội chợ là sân nhà văn hóa của xã không đủ diện tích nên xã đang có kế hoạch sử dụng (trưng dụng) một phần đất của các gia đình xung quanh sân vận động xã, trong đó có gia đình của chị P.

Chị P hoàn toàn ủng hộ kế hoạch tổ chức hội chợ triển lãm hoa lan nhưng cũng rất lo lắng và hoang mang vì nghe nói khi hết thời hạn tổ chức hội chợ, xã T sẽ không trả lại đất cho các hộ gia đình mà lấy để làm nơi tổ chức triển lãm hoa lan hàng năm. Đồng thời chị cũng phân vân không biết nếu đất thuộc quyền sử dụng của chị bị trưng dụng thì có được hỗ trợ gì không?

Hình ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã quan tâm và gửi câu hỏi, Luật sư Sao Việt có quan điểm tư vấn như sau:

1. Tính pháp lý trong việc UBND xã T trưng dụng đất của các hộ gia đình, trong đó có hộ gia đình chị P.

Luật Đất đai năm 2013 quy định Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp thật cần thiết để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai. Vì thế việc trưng dụng đất vì mục đích tổ chức hội chợ triển lãm hoa lan của UBND xã T là trái pháp luật vì không thuộc các trường hợp được pháp luật cho phép trưng dụng đất.

Thẩm quyền ra quyết định trưng dụng đất thuộc về Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ trưởng Bộ Y tế, Bộ trưởng Bộ Công Thương, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện. Những người này không được phân cấp thẩm quyền cho người khác. Căn cứ vào quy định này của Luật Đất đai 2013, nếu UBND xã T ra quyết định trưng dụng đất của chị P sẽ không đúng thẩm quyền.

Quyết định trưng dụng hợp pháp ngoài việc đáp ứng được điều kiện hợp pháp về chủ thể có thẩm quyền ban hành còn phải được thể hiện bằng văn bản; trường hợp khẩn cấp không thể ra quyết định bằng văn bản thì người có thẩm quyền được quyết định trưng dụng đất bằng lời nói nhưng phải viết giấy xác nhận việc quyết định trưng dụng đất ngay tại thời điểm trưng dụng.

Quyết định trưng dụng đất có hiệu lực thi hành kể từ thời điểm ban hành. Chậm nhất là 48 giờ, kể từ thời điểm quyết định trưng dụng đất bằng lời nói, cơ quan của người đã quyết định trưng dụng đất bằng lời nói có trách nhiệm xác nhận bằng văn bản việc trưng dụng đất và gửi cho người có đất trưng dụng.

Thời hạn trưng dụng đất là không quá 30 ngày kể từ khi quyết định trưng dụng có hiệu lực thi hành. Trường hợp hết thời hạn trưng dụng đất mà mục đích của việc trưng dụng chưa hoàn thành thì được gia hạn nhưng không quá 30 ngày. Quyết định gia hạn trưng dụng đất phải được thể hiện bằng văn bản và gửi cho người có đất trưng dụng trước khi kết thúc thời hạn trưng dụng.

Trường hợp trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp thì thời hạn trưng dụng được tính từ ngày ra quyết định đến không quá 30 ngày kể từ ngày bãi bỏ tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. Trường hợp hết thời hạn trưng dụng đất mà mục đích của việc trưng dụng chưa hoàn thành thì được gia hạn nhưng không quá 30 ngày. Quyết định gia hạn trưng dụng đất phải được thể hiện bằng văn bản và gửi cho người có đất trưng dụng trước khi kết thúc thời hạn trưng dụng.

Đối chiếu với tình huống của các hộ gia đình bị trung dụng trong đó có gia đình chị P thì UBND xã T không trả lại đất bị trưng dụng của chị P là không có căn cứ pháp lý vì theo nguyên tắc chung, hết thời hạn trưng dụng (hết thời hạn gia hạn trưng dụng), chủ thể trưng dụng đất đều phải trả lại đất cho người sử dụng đất.

2. Về chính sách hỗ trợ cho các hộ gia đình khi bị trưng dụng quyền sử dụng đất.

Khoản 7 Điều 72 Luật Đất đai 2013 chỉ quy định người có thẩm quyền trưng dụng đất có trách nhiệm giao cho tổ chức, cá nhân quản lý, sử dụng đất trưng dụng đúng mục đích, hiệu quả; hoàn trả đất khi hết thời hạn trưng dụng; bồi thường thiệt hại do việc trưng dụng đất gây ra. Việc bồi thường thiệt hại khi trưng dụng đất được thực hiện khi:

- Đất trưng dụng bị hủy hoại;

- Người có đất trưng dụng bị thiệt hại về thu nhập do việc trưng dụng đất trực tiếp gây ra;

Trường hợp đất trưng dụng bị hủy hoại thì việc bồi thường được thực hiện bằng tiền theo giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường tại thời điểm thanh toán. Trường hợp người có đất trưng dụng bị thiệt hại về thu nhập do việc trưng dụng đất trực tiếp gây ra thì mức bồi thường được xác định căn cứ vào mức thiệt hại thu nhập thực tế tính từ ngày giao đất trưng dụng đến ngày hoàn trả đất trưng dụng được ghi trong quyết định hoàn trả đất trưng dụng.

Mức thiệt hại thu nhập thực tế phải phù hợp với thu nhập do đất trưng dụng mang lại trong điều kiện bình thường trước thời điểm trưng dụng đất. Tiền bồi thường thiệt hại do việc trưng dụng đất gây ra được ngân sách nhà nước chi trả một lần, trực tiếp cho người có đất trưng dụng trong thời hạn không quá 30 ngày, kể từ ngày hoàn trả đất. Tiền bồi thường thiệt hại được Hội đồng do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện nơi có đất trưng dụng thành lập xác định trên cơ sở văn bản kê khai của người sử dụng đất và hồ sơ địa chính.

Xuất phát từ những quy định trên, nếu đất thuộc quyền sở hữu hợp pháp của chị P bị trưng dụng thì chị P sẽ không có quyền hưởng hỗ trợ đối với diện tích đất bị trưng dụng đó trong suốt thời gian trưng dụng mà chỉ có khả năng được bồi thường nếu thỏa mãn các điều kiện theo quy định tại Điểm a, b, c, d khoản 7 Điều 72 Luật Đất đai 2013.

Để nhận được ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, bạn đọc vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên viên pháp lý của Công ty Luật TNHH Sao Việt qua:

Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6243 hoặc 0243 636 7896

E-mail: saovietlaw@vnn.vn

 
Bình Luận

© 2018 SAOVIETLAW.COM Bản quyền thuộc về công ty Công Ty Luật TNHH Sao Việt

logo-footer