1. Cơ sở pháp lý
2. Nội dung
Các yếu tố cấu thành tội cưỡng dâm.
Mặt khách quan:
Mặt khách quan của tội này gồm có các dấu hiệu sau:
– Về hành vi. Có hành vi giao cấu với người khác (là người bị lệ thuộc hoặc đang cần sự giúp đỡ do đang ở trong tình trạng quẫn bách) bằng cách dùng thủ đoạn như dụ dỗ, mua chuộc, đe doạ…
– Dấu hiệu khác.
Đối tượng bị hại phải là người có mối quan hệ lệ thuộc với người phạm tội. Được hiểu là mối quan hệ lệ thuộc về nhiều mặt: về vật chất (như được nuôi dưỡng, được trợ giúp về điều kiện sinh sống..) về xã hội (như giữa giáo viên với học sinh, giữa bác sĩ với bệnh nhân), về tín ngưỡng (giữa tín đồ với người có chức sắc tôn giáo), về quan hệ gia đình (như giữa anh chị em cùng cha khác mẹ…), về công tác (như giữa thủ trưởng với nhân viên thuộc quyền…). Tất cả mối quan hệ nêu trên phải là mối quan hệ lệ thuộc thực sự, tức là người phạm tội phải có uy thế nhất định đối với người bị hại.
Người đang ở trong tình trạng quẫn bách: Được hiểu là trường hợp người bị hại đó đang gặp những khó khăn rất lớn về kinh tế… khó có thể khắc phục được hoặc đang gặp hiểm hoạ (như người thân đang mắc bệnh hiểm nghèo không có điều kiện về tài chính để đưa đi chữa trị, bản thân hoặc gia đình bị thiên tai bị phá sản… nên bị túng thiếu nghiêm trọng cần phải có ngay sự giúp đỡ).
Phải là miễn cưỡng giao cấu với người phạm tội: Được hiểu là người bị hại chấp nhận giao cấu nhưng không phải tự nguyện mà do sự tác động bởi các thủ đoạn khống chế tư tưởng (như doạ dẫm, hứa hẹn, giúp đỡ…) của người phạm tội.
Khách thể:
Hành vi cưỡng dâm nêu trên xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự và sức khoẻ của người khác.
Mặt chủ quan
Người phạm tội cưỡng dâm thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý, đồng thời còn xâm phạm đến sức khoẻ, tính mạng của người khác.
Chủ thể:
Chủ thể của tội cưỡng dâm là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự, đồng thời phải có mối quan hệ lệ thuộc với người bị hại hoặc có quan hệ nhất định trong việc giúp đỡ người bị hại thoát khỏi tình trạng quẫn bách.
Hình phạt.
Hình phạt của tội này được chia thành bốn khung, cụ thể như sau:
– Khung một (khoản 1)
Có mức phạt tù từ sáu tháng đến năm năm. Được áp dụng đốì với trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này nêu ở mặt khách quan.
– Khung hai (khoản 2)
Có mức phạt tù từ ba năm đến mười năm. Được áp dụng đốì với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:
+ Nhiều người cưỡng dâm một người (xem giải thích tương tự ở tội hiếp dâm).
+ Cưỡng dâm nhiều lần (từ hai lần trở lên).
+ Cưỡng dâm nhiều người (xem giải thích tương tự ở tội hiếp dâm).
+ Có tính chất loạn luân (xem giải thích tương tự ở tội hiếp dâm).
+ Làm nạn nhân có thai (việc xác định nạn nhân có thai hay không phải căn cứ vào kết quả giám định của cơ quan y tế chuyên môn).
+ Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;
+ Tái phạm nguy hiểm (xem giải thích tương tự ở tội giết người).
– Khung ba (khoản 3)
Có mức phạt tù từ bảy năm đến mười tám năm. Được áp dụng đối với một trong các trường hợp sau đây:
+ Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;
+ Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội cưỡng dâm;
+ Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
– Khung bốn (khoản 4)
Có mức phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Được áp dụng trong trường hợp người bị hại là người chưa thành niên từ đủ mười sáu tuổi đến dưới mười tám tuổi.
Hình phạt bổ sung (khoản 5)
Ngoài việc bị áp dụng một trong các hình phạt chính nêu trên, tuỳ từng trường hợp cụ thể người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề bạn quan tâm. Để được tư vấn cụ thể hơn, vui lòng gửi mail về cho chúng tôi theo địa chỉ: congtyluatsaoviet@gmail.com hoặc liên hệ trực tiếp đến tổng đài 1900 6243.
Trân trọng cảm ơn.