Trong các vụ án hình sự, người ta rất dễ bắt gặp cụm từ “miễn trách nhiệm hình sự”, tức là người bị truy cứu được miễn xử lý hình sự, không phải chịu các chế tài xử phạt của pháp luật. Tuy nhiên, được miễn trách nhiệm hình sự có đồng nghĩa với việc người đó vô tội hay không? Xem hết bài viết này của Luật Sao Việt nhé!

Thế nào là vô tội?

Vô tội là khái niệm đơn giản và dễ hiểu, tức là “không có tội”. Một người “vô tội” ở khía cạnh luật pháp tức là họ không vi phạm pháp luật hình sự, mặc dù có thể họ đã bị khởi tố, điều tra, truy tố, thậm chí bị đưa ra xét xử về một tội danh nào đó nhưng hội đồng xét xử nhận thấy rằng hành vi của họ không phạm tội nên tuyên bị cáo vô tội. Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Bộ luật Hình sự 2015: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự 2015 quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự” và Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.

Vì vậy, trước khi bản án có hiệu lực pháp luật thì dù có bị khởi tố, truy tố, đưa ra xét xử thì họ vẫn là người vô tội. Thậm chí ngay cả khi phải ngồi tù nhưng sau đó được chứng minh là vô tội và được tuyên vô tội thì người đó vẫn là người vô tội và họ hoàn toàn có quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng bồi thường theo Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước.

Thế nào là miễn trách nhiệm hình sự?

Miễn trách nhiệm hình sự là việc người phạm tội có hành vi vi phạm và có đủ căn cứ xác định hành vi họ thực hiện nguy hiểm cho xã hội nhưng vì một số lý do luật định như thay đổi chính sách, được đại xá, bị cáo không còn nguy hiểm cho xã hội,... nên họ được miễn trách nhiệm hình sự. 

Tại Bộ luật Hình sự 2015, việc miễn trách nhiệm hình sự được quy định tại các rất nhiều Điều, khoản như: Điều 16, Điều 29, khoản 2 Điều 91, khoản 4 Điều 110… Trong đó, căn cứ miễn trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 29 Bộ luật Hình sự như sau:

“1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những căn cứ sau đây:

a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;

b) Khi có quyết định đại xá.

2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong các căn cứ sau đây:

a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;

b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;

c) Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.

3. Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.”

Đồng thời, đối chiếu với quy định tại khoản 1 Điều 2 Bộ luật Hình sự 2015: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự 2015 quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự” và Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự nêu trên thì thời điểm được miễn trách nhiệm hình sự sẽ xác định bị cáo có “vô tội” hay không. 

Trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử (nhưng chưa có bản án có hiệu lực của Tòa) thì bị cáo vẫn được xem là vô tội cho dù hành vi mà bị cáo thực hiện đã cấu thành tội phạm.

Trường hợp đã có bản án có hiệu lực của Tòa kết luận bị cáo “có tội” nhưng sau đó được đại xá và được miễn trách nhiệm hình sự thì trong trường hợp này, bị cáo là người “có tội được miễn trách nhiệm hình sự”

Như vậy có thể thấy không phải mọi trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự đều là “vô tội” nhưng trong hầu hết các trường hợp, miễn trách nhiệm hình sự đồng nghĩa với việc họ “vô tội”. Dù khái niệm này có thể không phù hợp trên phương diện đạo đức và trái ngược với nhận thức của đa số người dân về việc “người được miễn trách nhiệm hình sự vẫn là người có tội nhưng do chính sách nên mới được miễn” nhưng nó phù hợp về mặt logic pháp lý.

Liên hệ sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật:

- CÔNG TY LUẬT TNHH SAO VIỆT -            
"Sự bảo hộ hoàn hảo trong mọi quan hệ pháp luật"         

TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT: 1900 6243

Địa chỉ tư vấn trực tiếp: Số 525B Lạc Long Quân, P. Xuân La, Q. Tây Hồ, Hà Nội

Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: congtyluatsaoviet@gmail.com

Bình Luận

© 2018 SAOVIETLAW.COM Bản quyền thuộc về công ty Công Ty Luật TNHH Sao Việt

logo-footer