Sẽ trả hồ sơ thay vì tuyên vô tội?

HĐXX sơ thẩm tuyên phạt bị cáo Lê Xuân Hộ (Phó Tổng Giám đốc Cty Gia Sàng) 5 năm tù, các bị cáo khác 2 năm tù. Sau phiên tòa, các bị cáo kháng cáo.

Phiên tòa phúc thẩm dự kiến sẽ được đưa ra xét xử vào ngày 4 và 5/8/2016. Liên quan đến vụ án, một luật sư cho rằng, dù có thể nhận thấy vụ án có dấu hiệu oan sai nhưng nhiều khả năng tòa án cấp phúc thẩm cũng sẽ vẫn chọn giải pháp “trung dung” nhất, đó là “cố gắng”  tìm ra một vài vi phạm tố tụng để hủy án để điều tra, xét xử lại thay vì tuyên vô tội.

Luật sư Nguyễn Quang Anh - Công ty Luật TNHH Sao Việt (Đoàn luật sư TP. Hà Nội): Việc Tòa án đưa ra các biện pháp “trung dung”sẽ làm kéo dài vụ án, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của các bị cáo.

Về vấn đề này, được biết tại Hội thảo định hướng sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) do Ủy ban Tư pháp của Quốc hội tổ chức vào tháng 12/2014, ông Nguyễn Sơn - Phó Chánh án TAND Tối cao nhấn mạnh: Khi không đủ căn cứ buộc tội thì Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội, việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, điều tra lại chỉ kéo rê vụ án, kéo dài thân phận pháp lý của người không biết có thực sự phạm tội hay không.

Để thay đổi theo những tư duy tích cực trên, việc nhanh chóng loại bỏ thực trạng Tòa án tùy tiện trả hồ sơ, hủy án vì “ngại” tuyên vô tội là điều hết sức cần thiết. Nhưng để làm việc này trong một sớm một chiều chắc chắn không dễ!

Chữa “bệnh” bằng cách nào?

Theo Luật sư Nguyễn Quang Anh: Trước tiên, chúng ta phải hiểu rõ nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên là do Tòa án vẫn mang tâm lý “ngại” làm “tổn thương” đến các cơ quan và người tiến hành tố tụng khác (CQ&N-THTT). Tuy nhiên, việc Tòa án đưa ra các biện pháp “trung dung” như vậy thì ngoài việc làm kéo dài vụ án, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của các bị cáo, còn có thể dẫn tới hệ lụy rất tiêu cực là CQ&N-THTT sẽ trốn tránh trách nhiệm. Bởi vậy, tôi cho rằng, ngoài việc buộc cá nhân có thẩm quyền của Tòa án sẽphải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại phát sinh trong khoảng thời gian từ khi quyết định“trung dung” đó được đưa ra cho đến khi bị can, bị cáo được xác định là không phạm tội (như bài báo trước đã nêu) thì cũng cần tạo choTòa thực hiện quyền năng tuyên vô tội của mình. Theo tôi, để giải quyết vấn đề này, rất cần có sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan liên quan, từ khâu ban hành văn bản pháp quy đến khâu thực thi; theo đó, cần nhanh chóng có văn bản hướng dẫn quy định cụ thể về trường hợp nào thì Tòa được trả hồ sơ, hủy án. Từ đó sẽ hạn chế được vấn nạn tùy tiện trong việc trả hồ sơ, hủy án. Không những thế, Tòa sẽ có căn cứ pháp luật rõ ràng để khước từ sự “nể nang”.

Để làm được điều này, Luật sư Quang Anh cho rằng cần quy định cụ thể các trường hợp sau: Nếu Tòa án xác định bị cáo không phạm tội thì việc tuyên bị cáo vô tội là đương nhiên; Trong trường hợp qua xét xử, Tòa nhận thấy không đủ căn cứ chứng minh bị cáo có phạm tội hay không thì Tòa cũng cần tuyên không phạm tội. Việc làm này cũng phù hợp với nguyên tắc chứng minh tội phạm (Điều 10 - BLTTHS) và nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo của pháp luật hình sự hiện hành; Trong các trường hợp nêu trên, dù có vi phạm thủ tục tố tụng đi chăng nữa thì việc điều tra bổ sung, điều tra lại cũng là không cần thiết. Cách thức xử lý này còn phù hợp với hướng dẫn tại Thông tư liên tịch 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC; cụ thể, tại Khoản 3 Điều 4 của Văn bản này quy định: Tòa án không trả hồ sơ nếu có vi phạm thủ tục tố tụng nhưng vi phạm đó không xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng.

Đối với các vi phạm tố tụng trong các trường hợp này, CQTHTT có thể tự kiểm điểm hoặc kiến nghị cơ quan vi phạm kiểm điểm, rút kinh nghiệm.

Tòa trả hồ sơ, hủy án để điều tra bổ sung, điều tra lại vào những trường hợp nào?

Luật sư Quang Anh cho rằng: việc trả hồ sơ, hủy án chỉ áp dụng khi Tòa án nhận thấy bị cáo có tội, nhưng do một số thiếu sót trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thấy cần thiết phải điều tra bổ sung, điều tra lại để làm rõ các tình tiết của vụ án, như để xác định tội của bị cáo là tội gì (ví dụ: cùng một hành vi lấy tài sản của người khác nhưng cần làm rõ là trộm cắp tài sản - lén lút, hay là công nhiên chiếm đoạt tài sản - công khai), hay để làm rõ khung khoản áp dụng với tội của bị cáo, xác định mức bồi thường thiệt hại...

Quay lại vụ án xảy ra tại Công ty Gia Sàng, theo hồ sơ vụ án thì ngày 12/4/2013, Công ty Gia Sàng thực hiện việc bán sắt thép phế liệu theo hợp đồng với một khách hàng. Cùng ngày hôm đó, lãnh đạo cũng đã đồng ý cho xe vào thu gom xỉ cắt phôi (rác thải công nghiệp) để cho công nhân (theo văn bản ký duyệt trước đó). Sáng 12/4/2013, lái xe ôtô BKS 20K-5768 đã vào Công ty Gia Sàng để bốc xỉ cắt phôi theo văn bản đề nghị của công nhân nói trên. Tuy nhiên, chính vì sự trùng lập này nên tại Tòa các bị cáo khai là đã nhầm lẫn trong qua trình giao hàng. Bởi vậy, khi xe bốc hàng xong đi ra khỏi Công ty Gia Sàng thì bị cơ quan công an thu giữ (do hàng hóa trên xe là sắt thép phế liệu, không phải là xỉ cắt phôi như văn bản đề nghị) và giao trả toàn bộ hàng cho Công ty Gia Sàng. Sau đó, Công an tỉnh Thái Nguyên khởi tố, bắt tạm giam các bị cáo vì cho rằng họ đã để cho xe ôtô trên vào lấy sắt thép phế liệu trái quy định của Công ty.

Nói về khả năng Tòa án cấp phúc thẩm sẽ đưa ra biện pháp “trung dung” là hủy án trong vụ án này, Luật sư Quang Anh cho biết thêm: Như tôi đã từng phân tích trong vụ án này, có căn cứ rõ ràng để cho rằng bị cáo Hộ không có hành vi phạm tội như quy kết của Tòa án sơ thẩm (bởi không có bất cứ chứng cứ nào thể hiện việc bị cáo Hộ điều động việc bốc hàng lên xe ôtô 20K-5768 để đem đi tiêu thụ), cho nên đây là trường hợp không có sự việc phạm tội của bị cáo theo Khoản 1- Điều 107 BLTTHS. Mặt khác, kể cả bị cáo Hộ có những hành vi như quy kết của cấp sơ thẩm đi chăng nữa thì hành vi đó cũng không cấu thành tội phạm - thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 - Điều 107 BLTTHS (bởi bị cáo Hộ là một cổ đông đại diện cho chính phần vốn của mình và Công ty Gia Sàng không phải Công ty Nhà nước nên không có yếu tố lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ được; Hơn nữa, thiệt hại thực tế cũng không xảy ra - nên không thể cấu thành tội theo Điều 281 - BLHS).

Luật sư Quang Anh cho rằng: Căn cứ Điều 251 - BLTTHS, Tòa án cấp phúc thẩm cần hủy bản án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án, không nên hủy án để điều tra, xét xử lại, kéo dài vụ án.

Phong Anh - Theo baomoi.com

 

 

Bình Luận

© 2018 SAOVIETLAW.COM Bản quyền thuộc về công ty Công Ty Luật TNHH Sao Việt

logo-footer