Khoảng 01 năm trước, em bị người ta dùng dao đâm bị thương, phải mổ ở bệnh viện, gia đình em đã làm đơn lên công an nhờ can thiệp vụ việc. Bên công an lấy lời khai và giám định tỷ lệ thương tích mà người kia gây cho em là 10%. Ngay sau đó, gia đình đối phương đã xuống thăm hỏi, chăm sóc em ở bệnh viện và thương lượng muốn giải quyết tình cảm, hứa sẽ đền bù cho em một số tiền để em phục hồi sức khỏe, vì vậy em đã đồng ý không kiện cáo nữa, và ký vào đơn yêu cầu không khởi tố vụ án. Tuy nhiên, từ lúc đó đến bây giờ đã 01 năm trôi qua, nhưng bên người đâm vẫn chưa đưa cho em số tiền đền bù như đã thỏa thuận. Vậy bây giờ em muốn làm đơn lên công an, để tố cáo lại người đâm kia để xử lý lại vụ việc thì có được không?

Trả lời:

Chào bạn. Cám ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Công ty TNHH Sao Việt. Về vấn đề của bạn, chúng tôi tư vấn cho bạn như sau:

  1. Căn cứ pháp lý:

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

Bộ luật Hình sự năm 2015

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2017

Bộ luật Dân sự năm 2015

Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015

  1. Nội dung tư vấn:

        Theo thông tin bạn cung cấp, bạn bị một người dùng dao đâm, gây thương tích phải mổ ở bệnh viện, giám định tỷ lệ thương tật là 10%. Người có hành vi dùng dao – hung khí nguy hiểm gây thương tích cho bạn được xác định là có dấu hiệu của Tội Cố ý gây thương tích theo quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 2017 (BLHS 2015 sửa đổi). Theo đó:

“Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

…”

        Đây cũng thuộc trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại được quy định tại Điều 155 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 (BLTTHS 2015). Theo đó:

Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại

1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ Luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.”

Theo quy định tại Điều 155 BLTTHS 2015 nêu trên thì khi bạn – bị hại trong vụ án đã rút yêu cầu khởi tố thì bạn sẽ không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp có căn chứng minh, việc bạn rút yêu cầu khởi tố là do bị ép buộc, cưỡng bức.

Mà xét trong trường hợp của bạn, việc bạn đưa ra quyết định và ký vào Đơn yêu cầu không khởi tố vụ án hình sự là hoàn toàn tự nguyện, trên cơ sở thương lượng với gia đình người gây thương tích mà không phải do bị ép buộc. Vì vậy, ngay khi gia đình người gây thương tích không thực hiện theo đúng thỏa thuận với bạn thì bạn cũng không có quyền tố cáo, hay đề nghị khởi tố lại vụ án hình sự mà bạn đã rút yêu cầu khởi tố trước đó.

Dù vậy, người đã gây thương tích cho bạn vẫn phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm về sức khỏe theo định tại Điều 584, 585 Bộ luật Dân sự năm 2015. Để đòi số tiền bồi thường thiệt hại, bạn có quyền khởi kiện ra Tòa án nhân dân cấp huyện yêu cầu người gây thương tích cho bạn phải bồi thường thiệt hại cho bạn khi người này không tự nguyện thực hiện việc đền bù như đã thỏa thuận. Tòa án sẽ căn cứ theo mức độ lỗi của các bên trong vụ việc, mức độ thiệt hại, quy định của pháp luật cũng như hoàn cảnh thực tế của các bên để xác định. Khoản tiền bồi thường thiệt hại về sức khỏe được xác định theo Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015) gồm:

“Điều 590. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm

1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:

a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;

d) Thiệt hại khác do luật quy định.

2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”

          Quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể là một trong những quyền nhân thân của cá nhân (Điều 33 BLDS 2015) không gắn liền với tài sản nên không áp dụng thời hiệu khởi kiện, vì vậy bất cứ lúc nào bạn cũng có thể khởi kiện theo thủ tục dân sự để đòi bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bởi hành vi trái pháp luật của người đã đâm bạn.

Trường hợp này, để việc khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại của bạn được giải quyết, bạn cần cung cấp cho Tòa án các chứng cứ chứng minh việc người này đã gây thương tích cho bạn, như hồ sơ vụ việc, hay xác nhận từ phía cơ quan công an về vụ việc đã xảy ra, Giấy giám định thương tích, hồ sơ bệnh án cùng các giấy tờ, hóa đơn, biên lai liên quan đến các chi phí khám chữa bệnh, phục hồi sức khỏe đối với thương tích trên. Sau đó, bạn nộp đơn khởi kiện cùng các giấy tờ, chứng cứ chứng minh đến Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú (thường trú/tạm trú) của người đã gây ra thương tích cho bạn 

Trên đây là tư vấn của Luật Sao Việt đối với câu hỏi của bạn. Nếu trong quá trình thực hiện các thủ tục nếu gặp phải các vấn đề cần được giải đáp, bạn vui lòng liên hệ:

Liên hệ sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật:

- CÔNG TY LUẬT TNHH SAO VIỆT -            
"Sự bảo hộ hoàn hảo trong mọi quan hệ pháp luật"         

TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT: 1900 6243

Địa chỉ tư vấn trực tiếp: Số 525B Lạc Long Quân, P. Xuân La, Q. Tây Hồ, Hà Nội

Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: congtyluatsaoviet@gmail.com

Bình Luận

© 2018 SAOVIETLAW.COM Bản quyền thuộc về công ty Công Ty Luật TNHH Sao Việt

logo-footer