Chào Luật sư, em muốn hỏi về một việc như sau: Chị em vì túng quẫn mà đi cướp tiệm vàng, và phía bị hại không bị gì hết. Sau đó, khi chủ tiệm báo công an, do lo sợ nên chị của em có ra đầu thú. Công an đã bắt tạm giam chị em và thu hồi lại hết số vàng mà chị em lấy đi nhưng phía bên bị hại không chịu bãi nại. Vậy em muốn hỏi, việc “trả lại” hay “không trả lại” số vàng đã cướp thì có ảnh hưởng đến mức án hay tội danh mà chị em bị truy tố không? Có được giảm án hay không? Vì nhiều người nói với gia đình em nếu không bãi nại thì không cần phải trả lại số vàng trên?

Trả lời:

Chào bạn. Cám ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Công ty Luật TNHH Sao Việt. Về vấn đề của bạn, chúng tôi sẽ tư vấn cho bạn như sau:

1. Căn cứ pháp lý.

- Bộ luật hình sự năm 2015

- Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

2. Nội dung tư vấn.

Dựa theo thông tin bạn cung cấp thì chị của bạn đã có hành vi cướp tiệm vàng. Trường hợp này, theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (BLHS 2015), chị của bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cướp Tài sản theo quy định tại Điều 168:

“Điều 168. Tội cướp tài sản

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;

d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

h) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;

c) Làm chết người;

d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

6. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

Căn cứ theo quy định tại Điều 168 BLHS được trích dẫn nêu trên, có thể thấy tùy vào mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các dấu hiệu của tội phạm, giá trị tài sản bị chiếm đoạt cũng như các yếu tố khác mà khung hình phạt được áp dụng để truy tố với hành vi phạm tội là khác nhau. Việc người phạm tội có trả lại hay không trả lại tài sản chiếm đoạt, người bị hại có “Đơn bãi nại/Rút yêu cầu khởi tố” hay không sẽ không ảnh hưởng đến việc xác định khung hình phạt đối với  tội danh này. Tội “Cướp tài sản” cũng là tội danh không thuộc trường hợp bị khởi tố theo yêu cầu của người bị hại (Điều 155 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015).

Do vậy, trong trường hợp của chị bạn thì việc có trả lại số vàng đã cướp hay không, bị hại có “bãi nại” hay không, thì cũng không ảnh hưởng đến tội danh truy tố cũng như khung hình phạt được áp dụng đối với hành vi của chị gái bạn.

Tuy nhiên, việc chị của bạn chủ động nộp lại  số vàng đã cướp được xem là trường hợp “tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” – Đây là một trong những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 51 BLHS 2015 (điểm b khoản 1). Theo khoản 1 Điều 50 BLHS 2015: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”.

Hơn nữa, số vàng mà chị của bạn cướp được xác định là tài sản bị chiếm đoạt, là tang vật của vụ án, nên dù chị của bạn không giao nộp thì Cơ quan Công an cũng sẽ tiến hành điều tra, tịch thu, để sau này trả lại cho người bị mất theo quy định. Chị bạn hay gia đình bạn đều không có quyền chiếm giữ trái phép tài sản này.

Trên đây là tư vấn của Luật Sao Việt đối với câu hỏi của bạn. Nếu trong quá trình thực hiện các thủ tục nếu gặp phải các vấn đề cần được giải đáp, bạn vui lòng liên hệ:

Liên hệ sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật:

- CÔNG TY LUẬT TNHH SAO VIỆT -            
"Sự bảo hộ hoàn hảo trong mọi quan hệ pháp luật"         

TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT: 1900 6243

Địa chỉ tư vấn trực tiếp: Số 525B Lạc Long Quân, P. Xuân La, Q. Tây Hồ, Hà Nội

Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: congtyluatsaoviet@gmail.com

Bình Luận

© 2018 SAOVIETLAW.COM Bản quyền thuộc về công ty Công Ty Luật TNHH Sao Việt

logo-footer