Khai thác khoáng sản là lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro về an toàn lao động, môi trường và xã hội. Trong bối cảnh các sự cố sập hầm, tràn bùn, tai nạn lao động nghiêm trọng vẫn còn xảy ra, việc yêu cầu doanh nghiệp chủ động nhận diện và phòng ngừa nguy cơ là cần thiết. Nhằm tăng cường quản lý rủi ro trong hoạt động khai thác, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư 24/2025/TT-BCT, có hiệu lực từ ngày 1/7/2025, quy định rõ việc lập và phê duyệt kế hoạch quản lý rủi ro trong khai thác khoáng sản. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm mới tích cực, Thông tư này cũng bộc lộ một số kẽ hở về cơ chế kiểm tra và chế tài thực thi, đặt ra câu hỏi về hiệu quả áp dụng trong thực tế.
1. Quy định mới về lập và phê duyệt kế hoạch quản lý rủi ro trong khai thác khoáng sản
Ngày 13/5/2025, Bộ Công Thương ban hành Thông tư số 24/2025/TT-BCT nhằm siết chặt công tác đảm bảo an toàn và bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản. Thông tư có hiệu lực từ ngày 1/7/2025 và yêu cầu các doanh nghiệp khai thác phải lập và thực hiện kế hoạch quản lý rủi ro theo quy định cụ thể. Theo đó, các đối tượng doanh nghiệp khai thác khoáng sản nhóm I bằng phương pháp lộ thiên; khoáng sản nhóm II, nhóm III, nhóm IV bằng phương pháp lộ thiên có sử dụng vật liệu nổ công nghiệp; khoáng sản nhóm I, nhóm II, nhóm III, nhóm IV bằng phương pháp hầm lò phải lập kế hoạch quản lý rủi ro trong khai thác khoáng sản theo các nội dung quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư. Kế hoạch quản lý rủi ro trong khai thác khoáng sản có thể được lồng ghép, tích hợp với đánh giá rủi ro, kế hoạch ứng cứu khẩn cấp khác theo pháp luật chuyên ngành. Ngoài ra, doanh nghiệp khai thác khoáng sản sẽ phải có trách nhiệm gửi kế hoạch quản lý rủi ro được phê duyệt cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo dõi, quản lý trên địa bàn.
Bên cạnh đó, Thông tư quy định rõ ba nghĩa vụ bắt buộc đối với doanh nghiệp (Điều 9 Thông tư):
- Tuân thủ các quy định của Thông tư này và pháp luật khác có liên quan.
- Tổ chức triển khai, thực hiện các nội dung của kế hoạch quản lý rủi ro được phê duyệt.
- Định kỳ hàng năm cập nhật kế hoạch quản lý rủi ro trong khai thác khoáng sản và cập nhật khi có sự thay đổi: Mục tiêu, chính sách về an toàn; tổ chức về công tác an toàn; danh mục máy, thiết bị, phương tiện, vật tư và hóa chất; công nghệ, tổ chức sản xuất; sau khi xảy ra tai nạn lao động, sự cố kỹ thuật gây mất an toàn, vệ sinh lao động nghiêm trọng; sơ đồ tổ chức, phân định trách nhiệm, hệ thống báo cáo khi xảy ra sự cố, tai nạn; địa chỉ liên lạc và thông tin trong ứng cứu khẩn cấp.
Theo Khoản 1 Điều 3 của Thông tư, rủi ro trong khai thác khoáng sản được hiểu là khả năng gặp những nguy cơ tiềm ẩn gây ra sự cố, tai nạn, thương tích, bệnh nghề nghiệp, thiệt hại về tài sản, ô nhiễm môi trường trong quá trình khai thác khoáng sản. Theo đó, kế hoạch quản lý rủi ro trong khai thác khoáng sản là hoạt động xây dựng hệ thống các quy định, quy trình nhằm tìm ra các mối nguy hiểm có thể xảy ra để phòng ngừa, ứng phó và khắc phục, giảm thiểu tối đa những rủi ro có khả năng phát sinh trong quá trình khai thác khoáng sản, bao gồm báo cáo quản lý an toàn, báo cáo đánh giá rủi ro và kế hoạch ứng cứu khẩn cấp (Khoản 6 Điều 3 của Thông tư).
2. Những khoảng trống pháp lý cần nhìn lại
2.1 Thiếu cơ chế giám sát cụ thể, tạo khoảng trống trong thực thi
Một trong những khoảng trống đáng lo ngại của Thông tư 24/2025/TT-BCT là thiếu quy định rõ ràng về cơ chế kiểm tra, giám sát thực địa việc triển khai kế hoạch quản lý rủi ro. Trong khi doanh nghiệp có nghĩa vụ lập kế hoạch rủi ro và cam kết triển khai các biện pháp phòng ngừa, ứng phó thì cơ chế kiểm tra việc thực hiện những cam kết này lại thiếu ràng buộc và cụ thể hóa trong Thông tư. Cụ thể, Điều 10, 11 của Thông tư có đề cập đến trách nhiệm của Cục Kỹ thuật an toàn và Môi trường công nghiệp và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, tuy nhiên: Không quy định tần suất kiểm tra định kỳ (theo quý, năm...); Không có mẫu biên bản, tiêu chí đánh giá cụ thể để kiểm tra tại hiện trường; Không yêu cầu hậu kiểm bắt buộc sau một thời gian kể từ khi kế hoạch được phê duyệt.
Chính sự thiếu vắng các yếu tố trên dẫn đến khoảng trống đáng kể giữa kế hoạch “trên giấy” và thực tế tại hiện trường. Khi không có kiểm tra thực địa thực chất, doanh nghiệp có thể: Soạn thảo kế hoạch theo mẫu có sẵn, mang tính đối phó, không sát với điều kiện địa chất - kỹ thuật cụ thể của mỏ; Không đầu tư nguồn lực (con người, thiết bị, ngân sách) để triển khai biện pháp phòng ngừa; Không phát hiện và xử lý kịp thời các mối nguy thực tế, khiến rủi ro về tai nạn, sập hầm, tràn bãi thải…tiếp tục tồn tại. Hệ quả là nhiều kế hoạch rủi ro được thông qua nhưng không có giá trị thực tiễn, làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước và nguy cơ sự cố nghiêm trọng. Nếu không có quy trình hậu kiểm và giám sát thường xuyên, thì việc phê duyệt kế hoạch cũng chỉ dừng lại ở hình thức hành chính, không mang lại tác động phòng ngừa thực sự.
2.2 Không có chế tài xử phạt riêng khi doanh nghiệp không thực hiện đúng kế hoạch
Một khoảng trống pháp lý khác trong Thông tư 24/2025/TT-BCT là việc không gắn kế hoạch quản lý rủi ro đã được phê duyệt với hệ thống chế tài xử phạt riêng biệt và đủ mạnh. Mặc dù doanh nghiệp buộc phải xây dựng kế hoạch theo nội dung quy định, bao gồm báo cáo an toàn, đánh giá rủi ro và phương án ứng cứu khẩn cấp, nhưng nếu doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện sai các nội dung này, thì pháp luật hiện hành vẫn chưa có hình thức xử phạt trực tiếp dựa trên vi phạm đó. Thay vào đó, cơ quan quản lý chỉ có thể xử phạt theo các hành vi vi phạm chung được quy định trong các nghị định liên quan như: Vi phạm quy định về an toàn lao động (Nghị định 12/2022/NĐ-CP); Vi phạm quy định về bảo vệ môi trường (Nghị định 45/2022/NĐ-CP); Vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản (Nghị định 36/2020/NĐ-CP, sửa đổi bởi Nghị định 17/2023/NĐ-CP). Tuy nhiên, các chế tài này không phản ánh đúng tính chất vi phạm cam kết trong kế hoạch rủi ro, khiến doanh nghiệp có thể: Phớt lờ các nội dung “không bắt buộc” trong kế hoạch mà không sợ bị truy cứu; Chỉ chịu hậu quả khi tai nạn hoặc sự cố đã xảy ra, lúc đó việc xử phạt không thể bù đắp thiệt hại đã phát sinh.
Một ví dụ thực tế đáng lưu ý như: Một mỏ than lộ thiên tại miền núi cam kết trong kế hoạch rủi ro rằng sẽ xây đê bao bãi thải đất đá để tránh sạt lở trong mùa mưa. Nhưng do không có kiểm tra, không có chế tài cụ thể gắn với việc triển khai kế hoạch, nên doanh nghiệp bỏ qua nội dung này để giảm chi phí. Khi mưa lớn xảy ra, bãi thải sạt lở, đất đá vùi lấp nhà dân và đường giao thông, thiệt hại nặng nề. Lúc này, cơ quan chức năng mới phát hiện kế hoạch đã bị doanh nghiệp phớt lờ, nhưng mọi biện pháp xử lý đều mang tính hậu kiểm và khắc phục, không còn hiệu quả trong phòng ngừa. Khoảng trống chế tài chính là nguyên nhân sâu xa khiến kế hoạch mất giá trị ràng buộc.
Thông tư 24/2025/TT-BCT là cơ sở đặt nền tảng quan trọng cho việc kiểm soát rủi ro trong khai thác khoáng sản. Tuy nhiên, việc thiếu cơ chế kiểm tra thực địa cụ thể và chưa có chế tài xử phạt riêng khi doanh nghiệp vi phạm kế hoạch đang tạo ra khoảng trống lớn trong thực thi. Nếu không sớm hoàn thiện, nguy cơ các kế hoạch rủi ro chỉ mang tính hình thức sẽ tiếp diễn, làm suy yếu mục tiêu phòng ngừa tai nạn và bảo vệ môi trường.
- CÔNG TY LUẬT TNHH SAO VIỆT -
"Sự bảo hộ hoàn hảo trong mọi quan hệ pháp luật"
TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT: 1900 6243
Địa chỉ tư vấn trực tiếp: Số 525B Lạc Long Quân, P. Xuân La, Q. Tây Hồ, Tp. Hà Nội
Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: congtyluatsaoviet@gmail.com