Mua lại tài sản trộm cắp có phạm tội không?

Trong bối cảnh thị trường mua bán – tiêu dùng ngày càng phong phú với vô số chủng loại hàng hóa, mẫu mã đa dạng, người tiêu dùng có nhiều cơ hội để lựa chọn sản phẩm phù hợp với nhu cầu và mục đích sử dụng. Tuy nhiên, đi kèm với sự tiện lợi đó là nỗi lo ngại về tình trạng hàng hóa không rõ nguồn gốc, xuất xứ đang được bày bán tràn lan trên thị trường.

Khi đó, những suy nghĩ, băn khoăn của người tiêu dùng sẽ dần xuất hiện, chẳng hạn: Liệu sản phẩm mình đang sử dụng có thể là hàng hóa do trộm cắp, chiếm đoạt mà có? Nếu vô tình mua phải và bị phát hiện thì bản thân người mua có phải chịu trách nhiệm pháp lý hay không, trong khi thực tế hoàn toàn không biết về nguồn gốc bất hợp pháp của món hàng đó? 

Để giải đáp những khúc mắc về vấn đề này, Luật Sao Việt sẽ phân tích, tư vấn cụ thể trong nội dung dưới đây.

 

Ảnh minh họa (nguồn: Internet)

1. Về mặt căn cứ pháp lý

Điều 323 Bộ luật Hình sự 2015 quy định cụ thể, chi tiết về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. 

Như vậy:

Về mặt chủ thể, người thực hiện hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có có thể là bất kỳ cá nhân nào có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Về mặt khách thể, tội phạm này xâm phạm trực tiếp đến trật tự an toàn xã hội, đồng thời gián tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản của cá nhân, tổ chức khác.

Về mặt khách quan, hành vi phạm tội không được xác định dựa trên giá trị của tài sản, mà cốt lõi ở chỗ tài sản đó có phải do hành vi phạm tội mà có hay không. Nếu tài sản không được hình thành từ hành vi phạm tội, hoặc hành vi của người có tài sản chưa hội đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, thì không thể coi đó là “tài sản do phạm tội mà có”. Theo quy định, tội danh này có thể được thực hiện dưới hai dạng hành vi: (i) chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có, tức là biết rõ nguồn gốc bất hợp pháp của tài sản nhưng vẫn cất giữ, che giấu, bảo quản cho người phạm tội; hoặc (ii) tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, tức là biết rõ tài sản có nguồn gốc tội phạm nhưng vẫn mua để sử dụng hoặc thực hiện các giao dịch khác nhằm tiêu thụ hộ cho người phạm tội. Do đó, tùy vào hành vi cụ thể, người thực hiện có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 323 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

Để cấu thành tội phạm, hành vi phải thỏa mãn một số điều kiện: (i) không có sự hứa hẹn trước với người giao tài sản về việc sẽ chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản phạm tội; (ii) chỉ tại thời điểm tiếp nhận hoặc thực hiện hành vi tiêu thụ mới biết rõ tài sản có nguồn gốc từ hành vi phạm tội. Hậu quả của hành vi này là xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp của người bị hại, đồng thời cản trở hoạt động điều tra, xử lý và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm gốc.

Về mặt chủ quan, tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, nghĩa là người phạm tội nhận thức rõ tài sản mình chứa chấp, tiêu thụ là do phạm tội mà có, nhưng vẫn thực hiện hành vi. Mục đích tư lợi hay động cơ cá nhân không phải là yếu tố bắt buộc để cấu thành tội phạm này.

Bên cạnh đó, căn cứ hướng dẫn tại Điều 2 Thông tư liên tịch 09/2011 /TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC có hiệu lực từ ngày 07/02/2012, hành vi tiêu thụ tài sản là một trong các hành vi như: mua, bán, thuê, cho thuê, trao đổi, cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký gửi, cho, tặng, nhận tài sản hoặc giúp cho việc thực hiện các hành vi đó. Cụ thể hơn, về mặt chủ quan, người thực hiện hành vi phạm tội phải biết rõ tài sản mà mình chứa chấp hoặc tiêu thụ là tài sản do phạm tội mà có nhưng không có hứa hẹn, bàn bạc hoặc thỏa thuận trước với người có tài sản do phạm tội mà có.

2. Vậy mua lại tài sản trộm cắp có phạm tội không?

Theo các Điều khoản đã phân tích, đề cập phía trên, có thể chia làm 2 trường hợp để xét xem có phạm tội hay không đối với hành vi “mua lại tài sản trộm cắp” như sau:

Thứ nhất, trong trường hợp mua phải tài sản do người khác phạm tội mà có (chẳng hạn như tài sản có được từ hành vi trộm cắp, cướp giật, lừa đảo…) nhưng thực tế không biết và cũng không có căn cứ để biết đó là tài sản phạm pháp, thì khách hàng sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Thứ hai, nếu biết rõ hoặc có đủ cơ sở để nhận định rằng tài sản đó có nguồn gốc từ hành vi phạm tội – ví dụ như giá bán bất thường rẻ hơn nhiều so với giá trị thực tế, người bán có biểu hiện khả nghi, tài sản còn nguyên tem, nhãn hoặc giấy tờ chứng minh quyền sở hữu không hợp lệ… – nhưng vẫn cố tình giao dịch, thì người mua có thể bị xử lý hình sự về tội danh nêu trên.

Lưu ý: 

Việc không biết và không có căn cứ để biết là yếu tố quan trọng để loại trừ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, nếu cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh được rằng người mua hàng thực tế biết rõ hoặc buộc phải biết tài sản có nguồn gốc từ tội phạm mà vẫn mua, thì hoàn toàn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Từ thực tiễn, để hạn chế rủi ro, khi mua bán hoặc thu mua tài sản cũ, người mua hàng nên yêu cầu người bán xuất trình giấy tờ chứng minh quyền sở hữu (nếu có), lưu giữ thông tin liên quan đến giao dịch, đồng thời cẩn trọng trước những tài sản có giá bất thường hoặc nguồn gốc không rõ ràng. Đây là biện pháp quan trọng giúp khách hàng khi đến mua đồ tránh rơi vào tình huống pháp lý bất lợi.

Nếu còn bất kỳ vướng mắc nào liên quan, hãy liên hệ với Luật sư và Chuyên viên pháp lý của chúng tôi để được hỗ trợ kịp thời và hiệu quả.

Liên hệ ngay để được Luật sư, Chuyên viên pháp lý hỗ trợ kịp thời:

- CÔNG TY LUẬT TNHH SAO VIỆT -            
"Sự bảo hộ hoàn hảo trong mọi quan hệ pháp luật"         

Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6243

Địa chỉ tư vấn trực tiếp: Số 525B Lạc Long Quân, P. Xuân La, Q. Tây Hồ, Hà Nội

Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: congtyluatsaoviet@gmail.com

Bình Luận

© 2018 SAOVIETLAW.COM Bản quyền thuộc về công ty Công Ty Luật TNHH Sao Việt

logo-footer