Năm 2021 tôi và bạn tôi là Nguyễn Văn A cùng nhau thành lập Công ty TNHH hai thành viên. Tôi góp vốn bằng tiền, còn ông A góp vốn bằng nhà xưởng và sử dụng để sản xuất, kinh doanh nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà xưởng gắn liền với quyền sử dụng đất cho công ty. Đến tháng 1/2024, ông A không nói gì mà giấu tôi chuyển nhượng vốn góp cho chị B. Bây giờ tôi muốn khởi kiện ông A thì Toà án có xác định việc góp vốn của ông A và công ty tôi đã hoàn thành không? Bà B có được coi là thành viên của công ty không khi tôi không đồng ý?

Ảnh minh hoạ, nguồn: Internet.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Sao Việt. Đối với thắc mắc của bạn, chúng tôi tư vấn cho bạn như sau:

1. Về việc góp vốn của ông A vào Công ty

Theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 35 Luật doanh nghiệp 2020 về việc chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn của thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn:

"a) Đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng đất thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho công ty theo quy định của pháp luật. Việc chuyển quyền sở hữu, chuyển quyền sử dụng đất đối với tài sản góp vốn không phải chịu lệ phí trước bạ;"

..."

Như vậy, căn cứ vào quy định nêu trên thì ông A có nghĩa vụ phải làm thủ tục sang tên nhà xưởng cho Công ty TNHH hai thành viên ngay từ khi góp vốn. Về mặt pháp lý, mặc dù thủ tục chuyển quyền chưa được thực hiện, nhưng nếu trên thực tế Công ty TNHH hai thành viên đã nhận và sử dụng nhà xưởng do ông A góp vốn từ khi thành lập (năm 2021), được xác định vào vốn Điều lệ của Công ty và được hạch toán là giá trị của Công ty trong báo cáo tài chính hàng năm thì trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án sẽ căn cứ vào quá trình hoạt động của Công ty, các tài liệu có liên quan (báo cáo tài chính hàng năm, Giấy chứng nhận góp vốn...) để từ đó xác định việc góp vốn của ông A đã hoàn thành.

Trong trường hợp ông A có Giấy chứng nhận phần vốn góp theo quy định tại Điều 47 của Luật Doanh nghiệp năm 2020, có tên trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh với phần giá trị vốn góp tương ứng nhà xưởng đã được định giá; có tên trong Sổ đăng ký thành viên theo quy định tại Điều 48 của Luật Doanh nghiệp năm 2020, đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ của thành viên theo Điều 49, 50 của Luật Doanh nghiệp năm 2020, thì dù thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa được thực hiện nhưng ông A đã là thành viên trên thực tế của Công ty.

2. Về việc chuyển nhượng vốn góp giữa ông A và bà B.

Điều 52 Luật doanh nghiệp 2020 quy định về việc chuyển nhượng phần vốn góp như sau:

"Điều 52. Chuyển nhượng phần vốn góp

1. Trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 51, khoản 6 và khoản 7 Điều 53 của Luật này, thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình cho người khác theo quy định sau đây:

a) Chào bán phần vốn góp đó cho các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty với cùng điều kiện chào bán;

b) Chuyển nhượng với cùng điều kiện chào bán đối với các thành viên còn lại quy định tại điểm a khoản này cho người không phải là thành viên nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc không mua hết trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày chào bán."

Như vậy, để chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên công ty TNHH cho người khác thì trước hết thành viên góp vốn phải chào bán cho các thành viên còn lại của công ty, trước khi chuyển nhượng cho người ngoài. việc chuyển nhượng cho người không phải là thành viên công ty chỉ được thực hiện sau khi các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc không mua hết trong 30 ngày kể từ ngày chào bán. Do đó, việc ông A tự ý chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho bà B mà không chào bán phần vốn góp cho bạn là sai quy định của pháp luật nên Hợp đồng chuyển nhượng giữa ông A và bà B bị vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật (Điều 123 của Bộ luật Dân sự năm 2015).

Khi hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, các bên phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận (theo quy định tại Điều 131 của Bộ luật Dân sự năm 2015). Vì vậy, bà B phải trả lại phần vốn góp đã nhận chuyển nhượng từ ông A và bà B sẽ không trở thành thành viên Công ty.

===============================================================================

- CÔNG TY LUẬT TNHH SAO VIỆT -   

"Sự bảo hộ hoàn hảo trong mọi quan hệ pháp luật"      

TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT: 1900 6243

Địa chỉ tư vấn trực tiếp: Số 525B Lạc Long Quân, P. Xuân La, Q. Tây Hồ, Tp. Hà Nội 

Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: congtyluatsaoviet@gmail.com

Bình Luận

© 2018 SAOVIETLAW.COM Bản quyền thuộc về công ty Công Ty Luật TNHH Sao Việt

logo-footer