Báo cáo nghiên cứu chính sách về triển khai

hóa đơn điện tử theo Nghị định 70/2025/NĐ-CP

Tác giả: Tiến sĩ, luật sư - Nguyễn Quang Anh

Công ty luật TNHH Sao Việt

 

Mục tiêu và nội dung chính của Nghị định 70/2025/NĐ-CP

Nghị định 70/2025/NĐ-CP (có hiệu lực từ 01/06/2025) sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 123/2020/NĐ-CP về hóa đơn, chứng từ【1】【2】. Điểm nhấn của Nghị định 70/2025/NĐ-CP là mở rộng đối tượng bắt buộc sử dụng hóa đơn điện tử (HĐĐT) khởi tạo từ máy tính tiền đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có doanh thu trên 1 tỷ đồng/năm, hoạt động bán lẻ hàng hóa, dịch vụ trực tiếp đến người tiêu dùng. Quy định mới yêu cầu các hộ kinh doanh này chuyển từ phương pháp thuế khoán sang phương pháp kê khai đầy đủ và sử dụng HĐĐT có kết nối với cơ quan thuế, chấm dứt việc sử dụng hóa đơn giấy hay nộp thuế khoán cố định như trước đây. Nghị định 70/2025/NĐ-CP liệt kê các ngành nghề trọng điểm thuộc diện áp dụng, gồm: bán lẻ hàng hóa (trừ ô tô, xe máy), dịch vụ ăn uống (nhà hàng, quán ăn, cà phê), khách sạn, vận tải hành khách, dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ, hoạt động giải trí, chiếu phim và các dịch vụ phục vụ cá nhân khác.

Như vậy, từ 1/6/2025, một loạt hộ kinh doanh trước đây nộp thuế khoán theo doanh thu ấn định sẽ phải đăng ký sử dụng HĐĐT từ máy tính tiền trước ngày 30/5/2025 và chuyển sang kê khai doanh thu thực tế định kỳ. Theo ước tính của Bộ Tài chính【15】, có khoảng 37.000 hộ kinh doanh đang nộp thuế khoán với doanh thu trên 1 tỷ đồng/năm thuộc diện điều chỉnh lần này. Tuy nhiên, phạm vi ảnh hưởng thực tế còn lớn hơn: tổng số hộ, cá nhân kinh doanh phải áp dụng HĐĐT từ 1/6/2025 có thể lên tới khoảng 270.000 hộ trên toàn quốc【15】. Điều này cho thấy quy định bao phủ cả những hộ quy mô nhỏ (tương đương doanh nghiệp siêu nhỏ) hoặc đã có sẵn máy tính tiền, chứ không chỉ các hộ doanh thu lớn.

Theo Kế hoạch triển khai Nghị định 70/2025/NĐ-CP của Tổng cục Thuế【6】, ngành thuế đánh giá hình thức mới khá đơn giản và đã chuẩn bị hạ tầng hỗ trợ cần thiết: hộ kinh doanh chỉ cần thiết bị kết nối Internet (máy tính, điện thoại, máy tính bảng) và máy tính tiền hoặc phần mềm bán hàng đáp ứng chuẩn kết nối với cơ quan thuế. Nhiều doanh nghiệp công nghệ đã tham gia cung cấp giải pháp; hiện có 108 tổ chức cung cấp giải pháp HĐĐT đạt chuẩn và 27 tổ chức trung gian truyền nhận dữ liệu được ký hợp đồng với cơ quan thuế để hỗ trợ nhóm hộ kinh doanh tiềm năng【6】. Cơ quan thuế trên cả nước cũng thành lập các tổ công tác và tổ chức tuyên truyền, tập huấn đến từng địa bàn, phối hợp với đại lý thuế và doanh nghiệp công nghệ hướng dẫn hộ kinh doanh triển khai; thậm chí huy động “cả hệ thống chính trị” vào cuộc, xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm năm 2025.

Mục tiêu chủ đạo của Nghị định 70/2025/NĐ-CP là minh bạch hóa doanh thu của khu vực hộ kinh doanh cá thể – vốn từ lâu là khu vực khó kiểm soát và dễ thất thu thuế. Khi mọi giao dịch bán hàng đều được xuất HĐĐT và truyền dữ liệu đến cơ quan thuế, Nhà nước có thể nắm bắt đầy đủ doanh số, qua đó mở rộng cơ sở thu thuế và chống thất thu ngân sách. Chính sách này cũng hướng đến việc tạo môi trường kinh doanh công bằng hơn: những hộ kinh doanh có doanh thu lớn sẽ phải đóng thuế tương xứng, tránh tình trạng trước đây nhiều hộ lớn “núp bóng” hộ khoán để nộp thuế ít, gây cạnh tranh không lành mạnh với doanh nghiệp tuân thủ đầy đủ. Ngược lại, các hộ kinh doanh nhỏ và hộ làm ăn chân chính, nộp thuế đầy đủ sẽ không còn bị thua thiệt; họ được hưởng lợi gián tiếp khi thị trường minh bạch, cạnh tranh bình đẳng hơn. Nghị định 70/2025/NĐ-CP cũng phù hợp với định hướng cải cách thuế: Bộ Chính trị đã đặt mục tiêu đến năm 2026 xóa bỏ hình thức thuế khoán, khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp【5】. Việc sớm áp dụng HĐĐT, làm quen với sổ sách kê khai sẽ giúp hộ kinh doanh dần tiệm cận mô hình doanh nghiệp, có cơ hội phát triển tốt hơn trong tương lai. Tóm lại, Nghị định 70/2025/NĐ-CP là bước tiến lớn trong hiện đại hóa quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, hướng đến tăng tính minh bạch, công bằng và mở đường cho sự chuyên nghiệp hóa khu vực kinh doanh nhỏ lẻ.

Khả năng tổ chức thực hiện trên toàn quốc và tại các lĩnh vực nhạy cảm

Triển khai trên phạm vi toàn quốc: Mặc dù ngành thuế đã thí điểm HĐĐT khởi tạo từ máy tính tiền từ cuối 2022 và mở rộng trong năm 2023【19】, kết quả cho thấy tỷ lệ tuân thủ chưa cao, chỉ khoảng 50% số cơ sở kinh doanh thuộc diện đã đăng ký sử dụng HĐĐT tính đến cuối 2024【4】. Nhiều địa phương chưa đạt mục tiêu “phủ sóng” HĐĐT: đến cuối 2024 có 9 tỉnh, thành phố có tỷ lệ hộ kinh doanh đăng ký HĐĐT rất thấp (dưới 35%)【4】. Đáng chú ý, TP. Hồ Chí Minh – trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước – nằm trong nhóm triển khai chậm với chỉ 27,8% số hộ thuộc diện đăng ký đã đăng ký thành công (tính đến cuối 2024)【4】. Một số địa bàn khác như Bình Dương (20,5%), Bắc Kạn (26,5%), Lạng Sơn (28,5%), Quảng Ngãi (30,6%), Vĩnh Phúc (24%), Bắc Ninh (31,5%), Quảng Nam (32,6%), Tuyên Quang (33%) cũng ở mức rất thấp【4】. Những con số này cho thấy khó khăn trong việc tổ chức thực hiện đồng bộ trên toàn quốc. Ngay từ giai đoạn thí điểm đầu 2023, theo Báo cáo của Cục Thuế TP.HCM (năm 2024)【17】, TP.HCM chỉ có 278/5.268 hộ kinh doanh mục tiêu đăng ký thành công HĐĐT (khoảng 5%), cho thấy quy mô lớn và tính đa dạng của hộ kinh doanh ở đô thị đặc biệt gây thách thức triển khai. Bên cạnh đó, những vùng kinh tế kém phát triển (như một số tỉnh miền núi phía Bắc) còn khó khăn hơn do hạ tầng CNTT yếu và trình độ dân trí, kỹ năng công nghệ hạn chế. Ví dụ, tỷ lệ đăng ký HĐĐT tại Bắc Kạn, Tuyên Quang chỉ khoảng 26–33%【4】. Nguyên nhân được chỉ ra là do đường truyền Internet kém, ít phổ biến máy tính/smartphone ở hộ kinh doanh, cũng như việc hỗ trợ từ cơ quan thuế địa phương chưa hiệu quả【8】. Như vậy, mức độ sẵn sàng về hạ tầng và nguồn nhân lực khác nhau giữa các vùng miền đang ảnh hưởng đáng kể tới tiến độ triển khai HĐĐT trên phạm vi cả nước.

Các lĩnh vực “nhạy cảm”: Nghị định 70/2025/NĐ-CP tập trung vào những loại hình kinh doanh bán lẻ, dịch vụ trực tiếp đến người tiêu dùng – vốn có giao dịch giá trị nhỏ, diễn ra thường xuyên – cũng là những lĩnh vực trước nay quen giao dịch tiền mặt và ít xuất hóa đơn. Việc bắt buộc xuất HĐĐT cho từng giao dịch lẻ đặt ra nhiều thách thức trong các lĩnh vực này:

- Dịch vụ ăn uống (nhà hàng, quán ăn, quán cà phê): Đây là nhóm được chú ý hàng đầu vì lượng giao dịch tiền mặt rất lớn nhưng ít khi xuất hóa đơn. Nhiều hộ kinh doanh ăn uống truyền thống tính tiền thủ công hàng chục năm, nay chuyển sang máy tính tiền sẽ lúng túng rõ rệt. Tại TP.HCM, theo Báo Tuổi Trẻ (2025) [11], có trường hợp chủ quán ăn vẫn tính tiền bằng tay và chưa được cán bộ thuế hướng dẫn cụ thể về Nghị định 70/2025/NĐ-CP; người này dự định mua máy tính tiền, máy in nhưng “mua máy ở đâu, loại nào và cách sử dụng ra sao để kết nối với ngành thuế cũng là cả một vấn đề”, cho thấy sự bỡ ngỡ ban đầu. Nhiều chủ quán nhỏ lớn tuổi, ít am hiểu công nghệ thậm chí hoàn toàn không hiểu gì khi được hướng dẫn, không nắm bắt nổi quy trình mới. Ví dụ, theo Báo Thanh Niên (2025) [10], bà Nguyễn Thị Tuyền (71 tuổi), chủ quán phở bình dân ở Q.11, TP.HCM, bán khoảng 80 tô/ngày (~3 triệu đồng doanh thu) – thuộc diện phải xuất HĐĐT cho từng giao dịch – lo ngại rằng do trình độ hạn chế, bà tính nhẩm thì nhanh nhưng không thể thao tác trên máy tính tiền. Thực tế cho thấy nhiều quán phở, quán ăn nhỏ do người lớn tuổi kinh doanh sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc sử dụng thiết bị công nghệ và thay đổi quy trình bán hàng hàng ngày. Chẳng hạn, trường hợp quán phở vỉa hè của bà Tuyền: nếu buộc phải bỏ ra vài triệu đồng mua máy và phần mềm, hoặc thuê người bấm hóa đơn, thì hai chị em chắc chắn sẽ nghỉ bán vì thu nhập không đủ trang trải【10】. Như vậy, gánh nặng chi phí và hạn chế kỹ năng đang khiến nhiều tiểu thương chợ truyền thống loay hoay trước yêu cầu chuyển sang HĐĐT.

- Bán lẻ truyền thống tại chợ, cửa hàng tạp hóa, siêu thị mini: Đây là nhóm chiếm tỷ trọng lớn trong hộ kinh doanh. Tại các chợ truyền thống, người bán đa phần lớn tuổi, trình độ công nghệ hạn chế, nhiều người thậm chí không biết dùng smartphone hay máy tính. Việc buộc họ sử dụng HĐĐT ngay lập tức là thách thức lớn; một số tiểu thương cao tuổi tuyên bố nếu bắt buộc phải đầu tư máy móc và học kỹ thuật số thì sẽ nghỉ bán. Thêm vào đó, chi phí đầu tư ban đầu (mua máy tính tiền, máy in) cũng khiến các hộ bán lẻ nhỏ e ngại. Một số sạp hàng nhỏ chưa đủ dư dả để sắm thiết bị hoặc thuê người hỗ trợ, nhất là trong bối cảnh kinh doanh khó khăn. Chẳng hạn, quán phở vỉa hè của bà Tuyền ở TP.HCM (đề cập ở trên): nếu buộc bỏ ra vài triệu đồng mua máy và phần mềm, hoặc thuê thêm người để vận hành hệ thống, thì việc kinh doanh sẽ không còn hiệu quả, có nguy cơ phải ngừng bán【10】. Nhìn chung, chi phí tuân thủ và hạn chế về kỹ năng đang tạo nên áp lực lớn, khiến nhiều tiểu thương tại chợ truyền thống e ngại trước yêu cầu chuyển sang HĐĐT.

- Dịch vụ vận tải hành khách (taxi, xe công nghệ, xe khách...): So với lĩnh vực ăn uống hay bán lẻ, vận tải có thuận lợi là nhiều đơn vị đã sử dụng thiết bị tính cước điện tử (đồng hồ tính tiền, ứng dụng gọi xe) nên về mặt kỹ thuật việc tích hợp xuất HĐĐT không quá khó khăn. Tuy nhiên, thách thức nằm ở tính tuân thủ của các cá nhân hành nghề tự do. Cơ quan thuế cần làm việc với các hiệp hội vận tải, hãng taxi, hợp tác xã… để đảm bảo các hộ cá thể trong ngành hiểu và thực hiện đúng quy định. Nếu không, có nguy cơ một số lái xe nhỏ lẻ sẽ lách luật: họ có thể không xuất hóa đơn cho khách lẻ, nhất là khi khách không đòi hỏi, tiếp tục thói quen cũ gây thất thu thuế. Ngoài ra, quy định mới buộc người làm vận tải phải ghi chi tiết trên hóa đơn (ví dụ “cước vận chuyển từ X đến Y, xe biển số…” thay vì ghi chung chung), đòi hỏi các hộ cá thể cũng phải thay đổi quy trình nghiệp vụ. Tóm lại, ngành vận tải tuy sẵn sàng về công nghệ hơn nhưng vẫn cần giám sát chặt để đảm bảo các hộ cá thể (tài xế độc lập) tuân thủ, tránh tình trạng cố tình né xuất hóa đơn khi khách thanh toán tiền mặt.

- Các dịch vụ cá nhân khác (làm đẹp, sửa chữa nhỏ, giáo dục tư nhân, v.v.): Đây cũng là nhóm hoạt động nhiều bằng tiền mặt, quy mô hộ gia đình. Thách thức tương tự là chủ cơ sở thường ít chú trọng sổ sách và khách hàng cũng không đòi hóa đơn. Việc trang bị thiết bị và kỹ năng xuất HĐĐT sẽ cần thời gian để các hộ này thích ứng.

Tâm lý và mức độ sẵn sàng của hộ kinh doanh: Tại các đô thị lớn (Hà Nội, TP.HCM...) – nơi tập trung nhiều hộ kinh doanh thuộc diện áp dụng – hiện tượng thờ ơ, chần chừ với quy định mới khá phổ biến khi hạn chót cận kề. Nhiều hộ vẫn mang tâm lý “đợi khi nào thuế xuống nhắc thì mới làm”. Ví dụ, theo VnEconomy (2025) [13], chủ một quán bún ngan nổi tiếng ở phố Hàng Bồ (Hà Nội) thừa nhận “có biết chính sách nhưng cũng chưa làm gì cả, để khi nào bên thu thuế xuống thì tính sau”. Tương tự, một tiểu thương bán rau quả tại chợ Long Biên (Hà Nội) cho hay ông đã quen đóng thuế khoán cố định, “giờ lại phải dùng máy tính, hệ thống máy tính tiền chuyên dụng, chưa biết xoay xở như thế nào”【13】. Những ví dụ này cho thấy công tác tuyên truyền dù đã triển khai vẫn chưa chạm tới tất cả nhóm hộ nhỏ lẻ; nhiều người còn chủ quan, ngại thay đổi và sẽ chỉ thực hiện khi bị nhắc nhở hoặc cưỡng chế.

Vai trò của các đô thị lớn: Các thành phố trực thuộc Trung ương như Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ được xem là địa bàn trọng điểm triển khai Nghị định 70/2025/NĐ-CP do tập trung nhiều hộ kinh doanh doanh thu cao. Hiện nay, cơ quan thuế các thành phố này đã xây dựng kế hoạch chi tiết: từ việc gửi thông báo, hướng dẫn đăng ký HĐĐT qua cổng thông tin, đến việc cử cán bộ xuống từng phường, chợ hỗ trợ hộ kinh doanh cài đặt, vận hành thử hệ thống. Sự chủ động của các cục thuế địa phương là rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên, như phân tích ở trên, rào cản lớn nhất là yếu tố con người – nhiều hộ kinh doanh nhỏ vẫn ngại thay đổi hoặc thiếu kỹ năng để thực hiện. Do đó, bên cạnh quyết tâm của cơ quan thuế, cần có thời gian và lộ trình hợp lý để đảm bảo quy định đi vào cuộc sống một cách hiệu quả, đồng bộ trên toàn quốc. Mức độ thành công của chính sách sẽ phụ thuộc lớn vào việc tổ chức thực hiện linh hoạt và sự đồng thuận của cộng đồng hộ kinh doanh cũng như người tiêu dùng tại từng địa phương.

Lợi ích, khó khăn và tác động thực tế đối với hộ kinh doanh tại đô thị lớn (Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ)

Quy định mới về HĐĐT mang lại một số lợi ích lâu dài cho hộ kinh doanh, nhưng đồng thời cũng gây không ít khó khăn trước mắt và tiềm ẩn thiệt hại cho họ, đặc biệt tại các đô thị lớn – nơi tập trung nhiều hộ kinh doanh quy mô vừa và nhỏ. Dưới đây là phân tích cụ thể về những lợi ích cũng như khó khăn, tác động tiêu cực mà hộ kinh doanh phải đối mặt khi triển khai Nghị định 70/2025/NĐ-CP.

Lợi ích đối với hộ kinh doanh:

- Môi trường kinh doanh minh bạch, cạnh tranh công bằng: Về phía Nhà nước, bắt buộc hộ kinh doanh kê khai doanh thu thực qua HĐĐT sẽ giảm tình trạng trốn thuế và tạo sân chơi bình đẳng hơn giữa các hộ. Những hộ vốn làm ăn chân chính, nộp thuế đầy đủ sẽ không còn bị thua thiệt so với hộ giấu doanh thu; trước đây nhiều hộ lớn đóng thuế khoán thấp không công bằng với hộ nhỏ, thì nay mọi hộ chịu quản lý như nhau. Theo nhận định của ngành thuế【14】, việc mở rộng HĐĐT sẽ giúp quản lý hiệu quả và công bằng hơn trong thu thuế khu vực hộ kinh doanh. Hộ kinh doanh lớn phải đóng thuế tương xứng với doanh thu, tránh lợi thế không chính đáng so với doanh nghiệp (vốn phải kê khai đầy đủ). Thị trường nhờ đó trở nên minh bạch, cạnh tranh sòng phẳng hơn, tạo lợi ích gián tiếp cho các hộ tuân thủ tốt.

- Tăng cường tính chuyên nghiệp và cơ hội phát triển: Việc sử dụng HĐĐT, ghi chép đầy đủ doanh thu – chi phí sẽ giúp hộ kinh doanh hình thành thói quen quản lý bài bản, tiệm cận phương thức hoạt động của doanh nghiệp. Về lâu dài, điều này có thể mang lại lợi ích cho chính hộ kinh doanh: họ có hồ sơ doanh thu rõ ràng hơn để tiếp cận tín dụng, mở rộng kinh doanh. Đồng thời, Nhà nước đang khuyến khích hộ kinh doanh chuyển lên doanh nghiệp, coi đây là xu hướng tất yếu trước năm 2026. Hộ nào sớm thích ứng với HĐĐT sẽ nắm bắt cơ hội chuyển đổi thuận lợi hơn, có thể được hỗ trợ và hưởng các chính sách ưu đãi khi đăng ký thành lập doanh nghiệp. Nói cách khác, chính sách HĐĐT có thể xem là bước đệm để các hộ kinh doanh vươn lên tầm cao hơn trong tương lai.

- Hạn chế rủi ro pháp lý về sau: Việc tuân thủ xuất hóa đơn minh bạch ngay từ đầu cũng giúp hộ kinh doanh tránh các rắc rối pháp lý trong tương lai. Khi hệ thống quản lý thuế ngày càng hiện đại, những hộ cố tình trốn thuế sẽ đối diện nguy cơ bị thanh tra, xử phạt hoặc truy tố. Ngược lại, hộ tuân thủ tốt sẽ yên tâm kinh doanh, không lo bị phạt hay truy thu thuế, tập trung phát triển hoạt động của mình. Lợi ích này tuy gián tiếp nhưng quan trọng trong môi trường kinh doanh ngày càng đề cao tính tuân thủ pháp luật.

Khó khăn và thiệt hại đối với hộ kinh doanh:

- Nguy cơ phải nộp thuế cao hơn, giảm thu nhập: Nhiều hộ kinh doanh lâu nay nộp thuế khoán thấp (do tự khai doanh thu thấp). Khi chuyển sang kê khai đúng doanh thu thực tế, họ sẽ bị tăng số thuế phải nộp. Dự kiến khoảng 37.000 hộ khoán doanh thu >1 tỷ đồng/năm sẽ bị điều chỉnh tăng mức thuế kể từ 1/6/2025【15】, tập trung nhiều ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM. Đây là gánh nặng tài chính không nhỏ đối với các hộ vốn quen nộp thuế thấp; một số hộ tỏ ra “ngại” tuân thủ chính sách vì lo ngại phải đóng thuế nhiều hơn. Thêm vào đó, khi chuyển sang phương pháp kê khai (tính thuế theo doanh thu – chi phí thực tế), nếu thiếu hóa đơn đầu vào cho chi phí, các hộ sẽ không được trừ khoản chi đó, dẫn đến thuế tính trên doanh thu cao hơn thực lãi, đánh thẳng vào lợi nhuận kinh doanh. Thực tế, mô hình kinh doanh nhỏ lẻ hiện nay có nhiều khoản chi không có hóa đơn (mua nguyên liệu ở chợ, mua hàng từ nhà cung cấp nhỏ lẻ…). Ví dụ, theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo (số tháng 5/2024) [9], một chủ quán phở ở Q.11, TP.HCM chia sẻ rằng mua vài trăm ngàn đồng rau thơm ở chợ hay gia vị ở cửa hàng nhỏ gần nhà gần như không bao giờ có hóa đơn. Do vậy, khi tính thuế trên dữ liệu doanh thu đầy đủ nhưng chi phí hợp lệ lại thiếu chứng từ, lợi nhuận ròng của hộ sẽ bị giảm đáng kể.

- Tăng chi phí tuân thủ và gánh nặng đầu tư: Việc trang bị máy tính tiền, máy in, đường truyền Internet… tạo ra chi phí mới đáng kể cho hộ kinh doanh nhỏ. Đối với hộ có doanh thu, lợi nhuận mỏng, vài triệu đồng đầu tư thiết bị và phần mềm là gánh nặng tài chính. Nhiều hộ kinh doanh nhỏ tại Hà Nội, TP.HCM lo ngại việc này sẽ bào mòn lợi nhuận vốn đã thấp; thậm chí một số trường hợp thu nhập không đủ bù chi phí, dẫn đến nguy cơ đóng cửa. Đặc biệt, nhóm hộ kinh doanh do người lớn tuổi quản lý chịu thiệt thòi lớn: họ không chỉ phải bỏ tiền mua sắm máy móc, mà có thể phải thuê thêm người biết sử dụng công nghệ để hỗ trợ. Chi phí thuê nhân viên vận hành hệ thống (hoặc thời gian tự mày mò học hỏi) cũng là một dạng chi phí cơ hội, làm giảm thu nhập của hộ. Nhìn chung, so với trước đây nộp thuế khoán giản đơn, giờ đây hộ kinh doanh đối mặt cả chi phí minh bạch doanh thu (thuế tăng) lẫn chi phí tuân thủ (đầu tư, vận hành hệ thống), gây áp lực tài chính kép.

- Rào cản về kỹ thuật và nhân lực: Nhiều hộ kinh doanh gia đình tại các đô thị có chủ hộ tuổi cao, trình độ CNTT hạn chế. Theo Báo Thanh Niên (2025) [10], một tiểu thương 78 tuổi ở chợ An Đông (TP.HCM) chưa từng dùng smartphone, nay nếu buộc dùng máy tính tiền thì bà “chắc chắn nghỉ bán” vì không biết sử dụng và không có ai hỗ trợ. Đây không phải trường hợp cá biệt – tại các chợ truyền thống hay khu phố cổ, không ít người bán lớn tuổi tuyên bố sẽ bỏ kinh doanh nếu bị ép chuyển đổi số. Như vậy, rủi ro mất kế sinh nhai đối với nhóm hộ này là có thật. Ngay cả với người trẻ hơn, việc sử dụng phần mềm HĐĐT, thao tác trên máy tính tiền, xử lý trục trặc kỹ thuật… cũng đòi hỏi thời gian học hỏi. Trong giai đoạn đầu, nhiều hộ sẽ lúng túng, sai sót khi vận hành hệ thống mới, có thể dẫn đến bị phạt (nếu cơ quan chức năng không linh hoạt). Tất cả những yếu tố này tạo nên tâm lý e ngại, áp lực tinh thần cho hộ kinh doanh, đặc biệt ở những khu vực đô thị lớn nơi khối lượng giao dịch hằng ngày lớn, sai sót rất dễ xảy ra dưới áp lực phục vụ khách liên tục.

- Nguy cơ mất khách hàng, giảm doanh thu ban đầu: Việc thay đổi cách thức bán hàng có thể ảnh hưởng đến trải nghiệm của khách hàng, nhất là trong môi trường đô thị cạnh tranh cao. Nếu hộ kinh doanh chưa có giải pháp bán hàng tích hợp trơn tru, việc xuất HĐĐT cho mỗi giao dịch sẽ kéo dài thời gian chờ của khách – đây là một thiệt hại gián tiếp không nhỏ trong kinh doanh dịch vụ ăn uống, bán lẻ nhanh. Ngoài ra, một số khách hàng quen có tâm lý e ngại khi phải cung cấp thông tin cá nhân (số điện thoại, mã số thuế) để lấy HĐĐT; họ cảm thấy không thoải mái và có thể hạn chế quay lại. Bên cạnh đó, tại các đô thị lớn, khách hàng có nhiều lựa chọn; nếu hộ kinh doanh buộc phải tăng giá bán để bù khoản thuế VAT phải nộp, họ lo ngại sẽ mất khách vào tay đối thủ (vì trước đây bán không hóa đơn có thể “né” một phần thuế để giữ giá rẻ). Theo phản ánh trên Báo Vietnamnet (2025) [12], ở Hà Nội và TP.HCM nhiều hộ đã tính đến việc phải tăng giá khoảng 5–10% khi chính thức xuất HĐĐT đầy đủ, và không ít người đau đầu về nguy cơ mất một phần khách hàng. Tại các thành phố trực thuộc TW khác như Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ tuy quy mô hộ kinh doanh nhỏ hơn nhưng cũng sẽ có không ít trường hợp tăng chi phí, giảm lợi nhuận, phải thay đổi cách thức kinh doanh tương tự. Điều đáng lưu ý là, nếu không có biện pháp hỗ trợ phù hợp, một bộ phận hộ kinh doanh nhỏ lẻ có thể đóng cửa hoặc chuyển sang hoạt động không phép (kinh doanh “chui”) để tránh phải tuân thủ, gây hệ lụy tiêu cực cho kinh tế địa phương.

Tóm lại, Hà Nội, TP.HCM và các đô thị lớn vừa là nơi hộ kinh doanh được hưởng lợi từ chính sách (môi trường kinh doanh minh bạch hơn) vừa là nơi chịu tác động mạnh nhất về khó khăn, thiệt hại ban đầu. Các lợi ích dài hạn của HĐĐT đối với hộ kinh doanh là rõ ràng, nhưng chi phí và thách thức ngắn hạn cũng rất đáng kể. Vai trò của cơ quan quản lý là làm sao giúp các hộ vượt qua giai đoạn chuyển đổi này với thiệt hại ít nhất, thông qua hỗ trợ kịp thời và lộ trình hợp lý; đồng thời phải đảm bảo mục tiêu cuối cùng của chính sách – chống thất thu thuế – được thực hiện hiệu quả.

Các kẽ hở có thể bị lợi dụng để trốn thuế dù áp dụng HĐĐT

Mặc dù HĐĐT kết nối cơ quan thuế là giải pháp mạnh để chống thất thu, tuy nhiên, không thể phủ nhận sẽ vẫn tồn tại những kẽ hở mà một số hộ kinh doanh có thể lợi dụng nhằm trốn hoặc giảm thuế phải nộp. Nhận diện các kẽ hở này giúp cơ quan quản lý có biện pháp ngăn chặn kịp thời:

- Không xuất hóa đơn cho một phần giao dịch: Đây là chiêu phổ biến nhất. Hộ kinh doanh có thể chỉ xuất HĐĐT cho những khách nào đòi hỏi, còn lại bán hàng vẫn thu tiền mặt mà không đưa hóa đơn. Điều này dễ xảy ra ở quán ăn, cửa hàng bán lẻ – nơi đa số khách không yêu cầu hóa đơn. Nếu cơ quan thuế không giám sát chặt, hộ kinh doanh có thể báo cáo doanh thu thấp hơn thực tế rất nhiều (chỉ phản ánh phần đã xuất hóa đơn). Ví dụ, một quán nhậu có ngày bán 100 bàn nhưng chỉ xuất hóa đơn 30 bàn, phần còn lại coi như bán “chui”. Kẽ hở này dựa vào thói quen tiêu dùng tiền mặt và không lấy hóa đơn của khách hàng, và sẽ còn tồn tại nếu không có biện pháp khuyến khích người mua đòi hóa đơn như đã phân tích ở trên.

- Xuất hóa đơn với giá thấp hơn, ghi sai mặt hàng: Một số hộ kinh doanh có thể gian lận bằng cách ghi hóa đơn không đúng giá trị thực tế. Ví dụ, bán một bữa ăn 500.000đ nhưng chỉ xuất hóa đơn 300.000đ; bán 10 món hàng nhưng hóa đơn chỉ ghi 5. Cách này đòi hỏi sự thỏa thuận ngầm với khách hàng (khách chấp nhận hóa đơn ghi thấp đổi lại trả tiền mặt ít hơn một chút). Trong môi trường bán lẻ B2C, khách hàng thường không quan tâm số tiền ghi trên hóa đơn nếu họ không dùng để thanh toán công ty, miễn họ trả đúng giá thỏa thuận. Lợi dụng tâm lý này, hộ kinh doanh có thể “hai sổ sách”: một sổ ghi doanh thu thật, một sổ (hóa đơn điện tử) báo thuế với doanh thu thấp hơn. Chẳng hạn, cửa hàng có thể áp dụng “chiết khấu” hay “khuyến mãi” giả trên hóa đơn để giảm số tiền thể hiện. Nếu cơ quan thuế không phân tích dữ liệu bất thường (như tỷ lệ chiết khấu quá cao) thì hộ kinh doanh vẫn trốn được một phần thuế.

- Sử dụng song song nhiều hệ thống thanh toán: Một thủ thuật tinh vi là hộ kinh doanh dùng hai máy tính tiền: một máy kết nối cơ quan thuế, một máy độc lập. Khi bán, họ có thể hỏi khách cách thanh toán: nếu khách quẹt thẻ hoặc chuyển khoản (dễ truy vết), họ đưa vào máy có kết nối và xuất HĐĐT; nếu khách trả tiền mặt, họ có thể chỉ in phiếu nội bộ từ máy không kết nối (hoặc viết tay biên nhận), không báo cáo doanh thu đó. Bằng cách này, doanh thu gửi cơ quan thuế chỉ phản ánh phần thanh toán qua ngân hàng, còn doanh thu tiền mặt (vốn chiếm tỷ lệ lớn) có thể bị giấu. Ở Việt Nam, thanh toán tiền mặt vẫn chiếm ưu thế, đặc biệt tại hàng quán nhỏ, nên kẽ hở này khá nguy hiểm. Để bị phát hiện, thường cần thanh tra thực địa hoặc tố cáo cụ thể. Nếu không có cơ chế giám sát chéo, một số hộ có thể lách luật trót lọt thời gian dài.

- Chia nhỏ doanh nghiệp hoặc chuyển sang hộ không thuộc diện: Để tránh bị bắt buộc dùng HĐĐT, một số hộ kinh doanh có thể nghĩ cách chia tách hoạt động kinh doanh. Ví dụ, một nhà hàng doanh thu 2 tỷ/năm có thể tách làm hai hộ kinh doanh (mỗi hộ đăng ký một phần diện tích/quầy riêng với doanh thu ~1 tỷ). Như vậy từng hộ đều dưới ngưỡng 1 tỷ, có thể lập luận không thuộc diện áp dụng (dù thực chất là chung một chủ). Hoặc chủ kinh doanh có thể nhờ người thân đứng tên mở hộ kinh doanh thứ hai để phân tán doanh thu. Việc này trái pháp luật, nhưng trên thực tế việc xác minh các hộ có liên quan nhau phức tạp. Nếu cơ quan thuế chỉ dựa trên mã số thuế và doanh thu từng mã số, kẽ hở “chia nhỏ” này có thể qua mặt nếu không rà soát kỹ mối liên hệ (như trùng địa chỉ kinh doanh, trùng chủ cũ/đại diện). Ngoài ra, một số có thể chọn hình thức kinh doanh khác tạm thời: chẳng hạn đóng mã số thuế hộ kinh doanh và bán hàng “chạy vòng ngoài” không đăng ký, để không phải thực hiện HĐĐT. Việc này biến họ thành cơ sở kinh doanh không phép – rủi ro cao nếu bị phát hiện, nhưng vẫn có người dám làm khi thấy chi phí tuân thủ cao hơn lợi ích.

- Lợi dụng chế độ hóa đơn cuối ngày và nhiều hình thức hóa đơn: Trước NĐ 70, pháp luật cho phép xuất hóa đơn tổng cuối ngày cho nhiều giao dịch lẻ (áp dụng cho bán lẻ, ăn uống). Nếu quy định này còn hiệu lực hoặc còn “độ trễ” áp dụng, một số hộ có thể gom tất cả doanh thu ngày vào một hóa đơn thay vì xuất từng lần. Điều này làm mất tính thời gian thực của dữ liệu, và có thể tạo kẽ hở chỉnh sửa số liệu trước khi xuất hóa đơn cuối ngày. Ngoài ra, quy định cũng cho phép người bán sử dụng song song nhiều hình thức hóa đơn (hóa đơn điện tử, hóa đơn giấy đặt in trong trường hợp đặc thù…). Một số hộ có thể vin vào việc vẫn còn hóa đơn giấy tồn để không xuất HĐĐT ngay, hoặc cố tình lùi ngày, lùi số hóa đơn. Tuy những cách này khó qua mắt lâu dài, nhưng trong thời gian đầu chuyển đổi, nếu quản lý lỏng lẻo, một bộ phận hộ kinh doanh vẫn có thể chậm trễ nhằm trì hoãn việc minh bạch doanh thu.

- Hủy hóa đơn hoặc điều chỉnh sai lý do: Hệ thống HĐĐT cho phép hủy/điều chỉnh hóa đơn nếu có sai sót. Đây cũng là kẽ hở nếu bị lạm dụng. Hộ kinh doanh có thể xuất hóa đơn bình thường cho khách (để khách yên tâm), nhưng sau đó viện cớ sai thông tin để hủy hóa đơn hoặc giảm doanh số trên hóa đơn điều chỉnh. Nếu quy trình phê duyệt hủy hóa đơn không chặt, họ có thể xóa bỏ dấu vết giao dịch sau khi đã giao hàng. Tất nhiên, việc này phải cân nhắc vì dữ liệu hủy có lưu vết, nhưng nếu khối lượng giao dịch lớn, họ có thể chọn lọc hủy những hóa đơn giá trị cao, giả mạo lý do khách trả hàng chẳng hạn, để giảm doanh thu. Đây là hình thức gian lận khó phát hiện nếu không đối chiếu với thực tế (vì trên hệ thống, hóa đơn đã hủy coi như không tồn tại). Cơ quan thuế cần có cơ chế kiểm tra các trường hợp hủy nhiều bất thường.

- Tận dụng giao dịch tiền mặt không truy vết: Cho dù HĐĐT có triển khai, nếu khách hàng và người bán thỏa thuận giao dịch “tiền tươi” không hóa đơn, nhà nước rất khó nắm được. Ví dụ, một cửa hàng điện tử có thể bán một món hàng đắt tiền không hóa đơn với giá giảm 5% cho khách trả tiền mặt (không lấy hóa đơn). Khách được giảm giá, người bán thì bỏ túi phần thuế lẽ ra phải nộp, hai bên cùng có lợi, chỉ ngân sách thiệt. Giao dịch ngầm bằng tiền mặt này vẫn sẽ là kẽ hở lớn trong công tác chống thất thu, nhất là ở các thành phố lớn nơi mua bán diễn ra nhộn nhịp và khó kiểm soát từng giao dịch. Việc hạn chế thanh toán tiền mặt và tăng thanh toán điện tử trong dân mới có thể thu hẹp dần kẽ hở này, nhưng đó là câu chuyện cần thời gian và chính sách tổng thể.

- Mua bán, sử dụng hóa đơn giả hoặc của công ty “ma”: Dù HĐĐT có mã của cơ quan thuế khó làm giả hơn hóa đơn giấy, vẫn có nguy cơ mua bán hóa đơn bất hợp pháp. Một số đối tượng có thể lập công ty “ma” (doanh nghiệp ảo) để xuất hóa đơn đầu vào cho các hộ kinh doanh nhằm hợp thức chi phí hoặc giảm thuế VAT. Trường hợp này đã xảy ra với hóa đơn giấy và có thể tiếp diễn trên hóa đơn điện tử nếu hệ thống không kiểm soát chặt chẽ. Chẳng hạn, hộ kinh doanh có thể móc nối với một công ty dịch vụ xuất hóa đơn GTGT khống (công ty đó sau này trốn đóng thuế hoặc được bù trừ bằng cách khác). Các vụ mua khống hóa đơn để rút tiền, trốn thuế đã bị khởi tố trong thời gian qua, cho thấy tội phạm về hóa đơn vẫn có đất hoạt động nếu có người tiếp tay. Cơ quan thuế cần ứng dụng phân tích dữ liệu lớn (Big Data) để phát hiện mạng lưới bất thường – ví dụ một công ty xuất rất nhiều hóa đơn cho các hộ kinh doanh khác nhau với giá trị lớn nhưng hoạt động sản xuất mờ nhạt – để sớm chặn lại các đường dây hóa đơn giả.

Tóm lại, việc áp dụng HĐĐT cho hộ kinh doanh sẽ thu hẹp đáng kể không gian trốn thuế, nhưng không thể triệt tiêu hoàn toàn nếu không có biện pháp đi kèm. Những kẽ hở chủ yếu xuất phát từ yếu tố con người và thói quen giao dịch tiền mặt, đòi hỏi cơ quan quản lý phải kết hợp giữa công nghệ và nghiệp vụ điều tra. Cần xây dựng hệ thống giám sát rủi ro trên dữ liệu HĐĐT để cảnh báo trường hợp doanh thu bất thường, tỉ lệ hóa đơn/khách hàng thấp, v.v. Đồng thời, sự phối hợp của xã hội (người tiêu dùng, các hộ kinh doanh chân chính tố giác) cũng quan trọng để phát hiện hành vi gian lận. Chính phủ có thể xem xét tăng mức phạt và chế tài hình sự cho các hành vi cố ý gian lận hóa đơn điện tử, tạo tính răn đe cao.

Đề xuất giải pháp và sáng kiến

Giải pháp hỗ trợ hộ kinh doanh thích ứng hiệu quả, duy trì hoạt động ổn định

Để quá trình chuyển đổi sang hóa đơn điện tử diễn ra suôn sẻ và hạn chế tác động tiêu cực, cần triển khai một loạt giải pháp đồng bộ, tối ưu và có thể áp dụng rộng rãi. Dưới đây là những giải pháp chính nhằm hỗ trợ hộ kinh doanh thích ứng với quy định mới và duy trì hoạt động ổn định:

- Tăng cường truyền thông, hướng dẫn và hỗ trợ kỹ thuật tận nơi: Cơ quan thuế và chính quyền địa phương cần đẩy mạnh tuyên truyền, đào tạo cho hộ kinh doanh về Nghị định 70/2025/NĐ-CP. Thông tin nên nhấn mạnh lợi ích lâu dài và trách nhiệm công bằng khi đóng thuế theo doanh thu thực. Các hội thảo, tập huấn miễn phí nên được tổ chức ngay tại chợ, khu phố – nơi tập trung nhiều hộ kinh doanh. Cơ quan thuế cần hướng dẫn chi tiết từ khâu đăng ký, cài đặt phần mềm đến cách xuất HĐĐT cho từng giao dịch. Nên thành lập lực lượng “đặc nhiệm” hỗ trợ 24/7 (đường dây nóng, nhóm Zalo tư vấn) để giải đáp vướng mắc kỹ thuật kịp thời. Đặc biệt, với những hộ lớn tuổi, trình độ hạn chế, cán bộ thuế nên đến trực tiếp cửa hàng giúp cài đặt, hướng dẫn thực hành nhiều lần cho quen. Sự đồng hành ban đầu này sẽ giảm bớt tâm lý lo lắng và sai sót khi hộ tự triển khai.

- Phân loại đối tượng, lộ trình thực hiện linh hoạt : Không nên áp dụng cùng một nhịp độ cho tất cả hộ kinh doanh. Cần ưu tiên triển khai trước với nhóm hộ doanh thu lớn, có khả năng thích ứng nhanh; ngược lại, cho phép độ trễ đối với hộ kinh doanh nhỏ, người bán cao tuổi. Các chuyên gia kiến nghị cơ quan thuế trong thời gian đầu nên tập trung khuyến khích và sàng lọc: hộ nào doanh thu cao, có điều kiện thì vận động áp dụng ngay; những hộ bán nhỏ lẻ (ví dụ vài chục suất phở một ngày), người già… thì “vừa làm vừa được hỗ trợ kèm cặp”【8】. Việc chưa vội phạt các trường hợp này trong giai đoạn đầu cũng phù hợp với tinh thần khuyến nghị của chuyên gia – tức không nên “vội phạt ngay”【8】. Lộ trình có thể thực hiện theo nguyên tắc “cuốn chiếu”: thành phố lớn làm trước, hộ quy mô lớn làm trước, sau đó mới đến hộ quy mô nhỏ hơn, vùng xa hơn. Cách tiếp cận linh hoạt này đảm bảo không bỏ sót đối tượng, đồng thời tránh gây phản ứng tiêu cực do áp dụng cứng nhắc đồng loạt.

- Hỗ trợ tài chính và cung cấp giải pháp công nghệ miễn phí : Chi phí là rào cản lớn, do vậy cần các gói hỗ trợ về tài chính cho hộ kinh doanh. Chính phủ và địa phương có thể xem xét trợ cấp hoặc cho mượn thiết bị máy tính tiền cho những hộ khó khăn【20】. Chẳng hạn, miễn/giảm thuế trong 1–2 quý đầu cho hộ kinh doanh nếu họ phát sinh chi phí mua máy, hoặc cho phép khấu trừ khoản chi mua thiết bị vào thu nhập chịu thuế. Bên cạnh đó, cần đảm bảo các phần mềm HĐĐT cơ bản được cung cấp miễn phí. Hiện Tổng cục Thuế đã phối hợp với một số doanh nghiệp (MISA, Viettel, FPT...) cung cấp giải pháp HĐĐT miễn phí đáp ứng chuẩn kết nối. Cần đẩy mạnh thông tin để hộ kinh doanh biết họ không nhất thiết phải mua phần mềm đắt tiền. Ngoài ra, có thể khuyến khích mô hình “điện thoại thông minh + máy in Bluetooth giá rẻ” – tận dụng smartphone cá nhân cài ứng dụng HĐĐT do cơ quan thuế cung cấp, kết nối với máy in nhỏ giá chỉ khoảng 1–2 triệu đồng. Cách làm này tiết kiệm chi phí và gọn nhẹ, phù hợp với quán ăn, cửa hàng nhỏ, giúp hộ kinh doanh tuân thủ mà không phải đầu tư hệ thống máy tính tiền đắt đỏ.

- Nâng cấp hạ tầng và tích hợp HĐĐT vào hệ thống sẵn có: Cơ quan thuế cần nâng cấp hệ thống máy chủ, đường truyền để tiếp nhận lượng dữ liệu rất lớn từ hàng trăm nghìn hộ kinh doanh gửi lên, đảm bảo hệ thống hoạt động ổn định 24/7, tránh tình trạng nghẽn mạng hay lỗi kỹ thuật khi hộ xuất hóa đơn – nếu không sẽ làm nản lòng người dùng. Bên cạnh đó, khuyến khích tích hợp chức năng HĐĐT vào các nền tảng bán hàng phổ biến mà nhiều hộ đã quen dùng (như các phần mềm POS, quản lý bán hàng: KiotViet, Sapo, MISA eShop...). Nên hỗ trợ các nhà cung cấp này tích hợp tính năng xuất HĐĐT có mã của cơ quan thuế ngay trên phần mềm của họ. Như vậy, hộ kinh doanh không phải dùng nhiều ứng dụng riêng lẻ; thao tác bán hàng – in hóa đơn – báo cáo thuế có thể diễn ra liền mạch trong một hệ thống. Việc tích hợp cũng mở ra khả năng kết nối với các ví điện tử, cổng thanh toán: ví dụ khi khách quét QR thanh toán thì đồng thời nhận được hóa đơn điện tử qua tin nhắn hoặc ứng dụng Zalo. Những giải pháp kỹ thuật này nếu làm tốt sẽ đơn giản hóa quy trình cho hộ kinh doanh, biến nghĩa vụ thuế thành một phần tự động của hoạt động bán hàng hằng ngày.

- Giải quyết bài toán hóa đơn đầu vào cho hộ kinh doanh: Như đã phân tích, nhiều hộ lo lắng về việc thiếu hóa đơn đầu vào cho chi phí. Ngành thuế cần có hướng dẫn linh hoạt về chứng từ chi phí cho các hộ mới chuyển sang phương pháp kê khai. Có thể chấp nhận một số chứng từ thay thế tạm thời (hóa đơn bán lẻ, biên nhận mua hàng có xác nhận của tổ chức, bảng kê mua hàng nông sản, v.v.) đối với các khoản chi mà thị trường chưa có hóa đơn. Đồng thời, cần phối hợp với các ngành liên quan để siết quản lý khâu đầu mối cung cấp hàng hóa. Ví dụ, tổ chức truy xuất nguồn hàng tại các chợ đầu mối (vải, nông sản…), yêu cầu các đầu mối lớn phải xuất hóa đơn đầy đủ cho tiểu thương. Cơ quan thuế có thể cử đoàn kiểm tra liên ngành đến những chợ cung cấp lớn (như chợ Đồng Xuân ở Hà Nội, chợ Bình Tây ở TP.HCM) để xử lý các trường hợp bán hàng không hóa đơn ở quy mô lớn. Khi nguồn cung cấp thực hiện nghiêm chỉnh việc xuất hóa đơn, hộ kinh doanh mới có đủ hóa đơn đầu vào để kê khai, giải tỏa lo ngại “đầu ra có HĐ nhưng đầu vào không có”.

- Khuyến khích người tiêu dùng lấy hóa đơn: Tạo động lực từ phía khách hàng sẽ thúc đẩy hộ kinh doanh phải xuất hóa đơn. Cần nâng cấp chương trình “Hóa đơn may mắn” (xổ số hóa đơn) với giải thưởng hấp dẫn hơn, phạm vi toàn quốc, có nguồn kinh phí riêng thay vì trích từ ngân sách hành chính vốn eo hẹp. Có thể học tập kinh nghiệm Đài Loan【7】: quay số trúng thưởng với giải thưởng lớn để người dân yêu cầu hóa đơn mỗi khi mua hàng. Bên cạnh đó, chính quyền các thành phố có thể phát động phong trào trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức khi đi mua hàng phải lấy hóa đơn – thực tế Tổng cục Thuế đã đề nghị Tổng Liên đoàn Lao động kêu gọi người lao động hưởng ứng chủ trương này. Khi người dân hình thành thói quen xin hóa đơn kể cả ở quán ăn, cửa tiệm nhỏ, hộ kinh doanh buộc phải thực hiện (để tránh mất khách và tránh bị tố giác trốn thuế). Về lâu dài, đây là giải pháp văn hóa – xã hội quan trọng giúp duy trì kỷ luật hóa đơn.

- Tăng cường chế tài và giám sát song hành với hỗ trợ: Song song với các biện pháp “mềm”, vẫn cần chế tài nghiêm minh để đảm bảo những hộ cố tình chây ì phải tuân thủ. Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo “kiên quyết xử lý theo pháp luật những người cố tình không thực hiện HĐĐT khởi tạo từ máy tính tiền”【14】. Do đó, các địa phương nên thành lập đoàn kiểm tra liên ngành (thuế, quản lý thị trường, công an…) để rà soát tại các cơ sở kinh doanh trọng điểm. Ví dụ, cuối mỗi ngày, lực lượng chức năng có thể kiểm tra ngẫu nhiên một số nhà hàng, cửa hiệu: yêu cầu xuất trình hóa đơn các giao dịch trong ngày, nếu phát hiện bán hàng không xuất hóa đơn sẽ lập biên bản xử phạt ngay với mức 5–10 triệu đồng. Việc xử phạt cần được thực hiện công khai, minh bạch (đưa tin trên phương tiện truyền thông địa phương) để răn đe các hộ khác. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý yếu tố nhân văn: trong giai đoạn đầu, ưu tiên nhắc nhở kết hợp hướng dẫn; chỉ xử phạt nặng những trường hợp cố tình chây ì hoặc gian lận trắng trợn. Cách tiếp cận “phạt để giáo dục” này sẽ hiệu quả hơn là phạt tràn lan, tránh gây phản ứng tiêu cực trong cộng đồng hộ kinh doanh.

- Phát huy vai trò của chính quyền địa phương và hiệp hội: UBND các tỉnh, thành cần vào cuộc quyết liệt, thành lập ngay Ban chỉ đạo triển khai HĐĐT do lãnh đạo địa phương đứng đầu (như đã làm với một số chương trình mục tiêu khác). Ban chỉ đạo này huy động các sở, ban ngành liên quan phối hợp cùng cơ quan thuế, từ công tác tuyên truyền vận động đến thanh tra giám sát việc thực hiện. Các hiệp hội ngành nghề, hội doanh nghiệp nhỏ và vừa tại địa phương cũng có thể tham gia hỗ trợ hội viên. Chẳng hạn, Hiệp hội nhà hàng tại Hà Nội và TP.HCM có thể tổ chức tập huấn riêng cho các chủ nhà hàng về HĐĐT; Hiệp hội tiểu thương chợ vận động các sạp cùng nhau thực hiện để không ai “chịu thiệt một mình”. Sự đoàn kết và đồng thuận trong cộng đồng hộ kinh doanh sẽ giúp triển khai nhanh hơn và giảm tâm lý chống đối. Tất cả những giải pháp trên cần được thực hiện đồng bộ, xuyên suốt trong giai đoạn trước và sau mốc 1/6/2025, nhằm giúp hộ kinh doanh thay đổi thói quen dần dần, hiểu đúng – làm đúng và thấy được lợi ích khi tham gia hệ thống HĐĐT. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, chuyển đổi số trong lĩnh vực thuế ban đầu khó khăn nhưng về lâu dài sẽ mang lại lợi ích cho cả Nhà nước và người nộp thuế nếu có lộ trình và hỗ trợ phù hợp【21】【22】.

Sáng kiến chính sách, mô hình tổ chức và giải pháp kỹ thuật khả thi áp dụng rộng rãi

Ngoài các giải pháp hỗ trợ và kiến nghị chính sách nêu trên, Chính phủ có thể xem xét một số ý tưởng, sáng kiến bổ sung mang tính đột phá nhằm tăng hiệu quả triển khai HĐĐT và giảm thiểu tác động tiêu cực trên diện rộng:

- Ứng dụng công nghệ Big Data vào giám sát rủi ro: Xây dựng hệ thống phân tích dữ liệu lớn trên cơ sở dữ liệu HĐĐT để phát hiện sớm các dấu hiệu bất thường. Ví dụ: cảnh báo nếu một hộ có tỷ lệ hóa đơn/doanh thu quá thấp so với trung bình ngành (nghi ngờ không xuất hóa đơn cho nhiều giao dịch), hoặc nếu một hộ có tỷ lệ hủy hóa đơn cao bất thường. Hệ thống cũng giúp phát hiện mạng lưới gian lận: chẳng hạn một doanh nghiệp xuất hóa đơn cho rất nhiều hộ ở các tỉnh khác nhau với giá trị lớn nhưng doanh thu của chính doanh nghiệp đó lại thấp – dấu hiệu công ty “ma” bán hóa đơn. Bằng cách phân tích mối quan hệ dữ liệu, cơ quan thuế có thể khoanh vùng đối tượng nghi vấn để thanh tra, chặn đứng kịp thời các đường dây trốn thuế có tổ chức. Sáng kiến này đòi hỏi đầu tư về công nghệ và nhân lực phân tích, nhưng sẽ là công cụ đắc lực nâng cao hiệu quả quản lý HĐĐT.

- Thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt: Để thu hẹp kẽ hở từ các giao dịch tiền mặt, cần tiếp tục triển khai các chính sách khuyến khích thanh toán điện tử trên phạm vi toàn xã hội. Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành liên quan nên có đề án thúc đẩy sử dụng máy POS, mã QR, ví điện tử tại các hộ kinh doanh nhỏ. Có thể xem xét ưu đãi phí hoặc hỗ trợ trang bị thiết bị thanh toán cho tiểu thương. Khi tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt tăng, các giao dịch sẽ có tính truy vết cao hơn, hạn chế khả năng bán “chui” không hóa đơn. Đây là giải pháp cần sự phối hợp liên ngành và thực hiện kiên trì, nhưng về lâu dài sẽ thay đổi thói quen tiêu dùng của người dân, hỗ trợ mạnh cho mục tiêu minh bạch doanh thu hộ kinh doanh.

- Phát triển mô hình nền tảng xuất hóa đơn tập trung: Đối với các lĩnh vực hộ kinh doanh phân tán, cá thể nhỏ lẻ (như tài xế vận tải, shipper tự do, thợ sửa chữa lưu động…), có thể nghiên cứu xây dựng nền tảng chung do cơ quan thuế quản lý hoặc cấp phép cho doanh nghiệp uy tín vận hành. Hộ kinh doanh nhỏ có thể tham gia nền tảng này và ủy quyền cho đơn vị vận hành xuất hóa đơn điện tử thay mặt họ. Ví dụ, một tài xế taxi/xe tải cá thể có thể bán dịch vụ (chở khách, chở hàng) thông qua nền tảng; nền tảng sẽ tự động xuất HĐĐT gửi khách và đồng bộ dữ liệu cho cơ quan thuế. Điều này giúp các hộ ít kinh nghiệm, kỹ năng cũng có thể tuân thủ quy định nhờ sự hỗ trợ tập trung của nền tảng. Mô hình này tương tự việc các tài xế công nghệ hiện nay nhận chuyến và thanh toán qua ứng dụng – ứng dụng có thể kết hợp phát hành hóa đơn. Nhà nước có thể thí điểm mô hình này với một số ngành; nếu hiệu quả sẽ nhân rộng, qua đó bao phủ được nhóm đối tượng khó tiếp cận.

- Nâng cao năng lực và vai trò “thanh tra xã hội”: Bên cạnh hệ thống giám sát của cơ quan thuế, cần phát huy vai trò giám sát của người tiêu dùng và các hộ kinh doanh tuân thủ. Chính quyền có thể thiết lập kênh tiếp nhận phản ánh (đường dây nóng, website, ứng dụng) để khách hàng hoặc hộ kinh doanh khác tố giác các trường hợp không xuất hóa đơn hoặc gian lận. Cần bảo vệ danh tính và có cơ chế khen thưởng xứng đáng cho người báo tin (ví dụ thưởng tỷ lệ % trên số thuế truy thu được) nhằm khuyến khích sự tham gia tích cực của xã hội vào công tác giám sát. Đây là sáng kiến chính sách nhằm tạo mạng lưới “thanh tra” phi chính thức rộng khắp, bổ trợ cho lực lượng thanh tra mỏng của cơ quan thuế.

- Xây dựng văn hóa tuân thủ thuế trong cộng đồng hộ kinh doanh: Về lâu dài, Chính phủ có thể phát động các phong trào, sáng kiến mềm để thay đổi nhận thức và văn hóa kinh doanh. Ví dụ: phong trào “Hộ kinh doanh văn minh, tuân thủ pháp luật” gắn với việc sử dụng HĐĐT; tổ chức bình chọn và vinh danh các hộ kinh doanh tiêu biểu thực hiện tốt nghĩa vụ thuế. Lồng ghép nội dung về đạo đức kinh doanh và trách nhiệm đóng thuế vào các chương trình đào tạo nghề, đào tạo khởi sự kinh doanh cho thanh niên, hội phụ nữ, v.v. Những mô hình giáo dục, vận động như vậy sẽ góp phần tạo dựng ý thức tự giác trong cộng đồng hộ kinh doanh, giúp chính sách thuế được tuân thủ bền vững chứ không chỉ bằng biện pháp cưỡng chế.

Những sáng kiến nêu trên, kết hợp với hệ thống giải pháp đã phân tích, sẽ góp phần tạo nên bức tranh tổng thể về triển khai HĐĐT: vừa có công nghệ hiện đại, vừa có chính sách hỗ trợ, lại có sự tham gia của toàn xã hội. Đây là tiền đề để việc áp dụng HĐĐT theo NĐ 70 đạt hiệu quả cao nhất và hạn chế tối đa tác động tiêu cực đến hộ kinh doanh.

KẾT LUẬN

Việc triển khai hóa đơn điện tử theo Nghị định 70/2025/NĐ-CP đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh là một bước tiến lớn trong hiện đại hóa quản lý thuế, hướng đến minh bạch và công bằng hơn trong cộng đồng kinh doanh nhỏ. Tuy nhiên, tính khả thi của chính sách phụ thuộc rất nhiều vào công tác tổ chức thực hiện – cần sự quyết liệt, linh hoạt từ cơ quan thuế và chính quyền các cấp, cũng như sự đồng thuận của hộ kinh doanh và người tiêu dùng. Hà Nội, TP.HCM và các đô thị lớn sẽ là tuyến đầu vừa hưởng lợi vừa chịu tác động mạnh, do đó cần tập trung nguồn lực hỗ trợ tại đây. Bên cạnh những lợi ích dài hạn rõ rệt (tăng thu ngân sách, môi trường kinh doanh bình đẳng), hộ kinh doanh đang đối mặt với không ít khó khăn trước mắt – từ chi phí, kỹ thuật đến nguy cơ sụt giảm thu nhập ban đầu. Trách nhiệm của cơ quan quản lý là giúp họ vượt qua giai đoạn chuyển đổi này với thiệt hại ít nhất bằng các giải pháp hỗ trợ thiết thực, đồng thời phải kịp thời bịt các kẽ hở để đảm bảo mục tiêu chính – chống thất thu thuế – được thực hiện trọn vẹn.

Việc chuyển đổi toàn bộ hộ kinh doanh sang hóa đơn điện tử chắc chắn là thách thức không nhỏ, nhưng nếu làm tốt, Việt Nam sẽ có một hệ thống quản lý doanh thu hộ kinh doanh hiện đại hàng đầu, góp phần tăng nguồn thu ngân sách và tạo môi trường kinh doanh công bằng, minh bạch hơn trong nền kinh tế. Đây không chỉ là nhiệm vụ của riêng ngành thuế, mà đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự hưởng ứng của cộng đồng doanh nghiệp, người dân. Với quyết tâm cao và các bước đi đúng đắn, chúng ta có thể tin tưởng vào thành công của chính sách này, mang lại lợi ích lâu dài cho Nhà nước, người nộp thuế và toàn xã hội.

 

 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Văn bản pháp luật:

1. Chính phủ (2025). Nghị định số 70/2025/NĐ-CP ngày 20/3/2025 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2020/NĐ-CP quy định về hóa đơn, chứng từ. Hà Nội: Cổng thông tin điện tử Chính phủ.

2. Chính phủ (2020). Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 quy định về hóa đơn, chứng từ. Hà Nội: Cổng thông tin điện tử Chính phủ.

3. Bộ Tài chính (2021). Thông tư số 78/2021/TT-BTC ngày 17/9/2021 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế liên quan đến hóa đơn, chứng từ. Hà Nội: Bộ Tài chính.

Tài liệu báo cáo, nghiên cứu, chính sách:

4. Tổng cục Thuế (2024). Báo cáo kết quả thí điểm và triển khai mở rộng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền năm 2024. Hà Nội: Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính.

5. Bộ Tài chính (2023). Chiến lược cải cách hệ thống thuế Việt Nam giai đoạn 2021–2030. Hà Nội: Bộ Tài chính.

6. Tổng cục Thuế (2025). Kế hoạch triển khai Nghị định 70/2025/NĐ-CP về hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh năm 2025. Hà Nội: Tổng cục Thuế.

Bài báo, tạp chí chuyên ngành:

7. Tạp chí Tài chính (2023). “Tăng tốc phủ sóng hóa đơn điện tử từ máy tính tiền đến hộ kinh doanh”. Truy cập từ https://tapchitaichinh.vn.

8. Tạp chí Quản lý thuế (2023). “Những khó khăn và giải pháp trong triển khai hóa đơn điện tử từ máy tính tiền”, số tháng 10/2023, tr.15–20.

9. Tạp chí Kinh tế và Dự báo (2024). “Đánh giá sơ bộ việc triển khai hóa đơn điện tử tại TP.HCM và các giải pháp khắc phục khó khăn”, số tháng 5/2024, tr.34–39.

Nguồn báo chí và truyền thông:

10. Báo Thanh Niên (2025). “Hộ kinh doanh băn khoăn với hóa đơn điện tử bán hàng”. Truy cập ngày 23/05/2025 từ https://thanhnien.vn.

11. Báo Tuổi Trẻ (2025). “Chuyển đổi số bắt buộc với hộ kinh doanh: Bỏ thuế khoán, làm quen máy tính tiền”. Truy cập ngày 25/05/2025 từ https://tuoitre.vn.

12. Báo Vietnamnet (2025). “Áp dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền: Lộ trình, thách thức và giải pháp”. Truy cập từ https://vietnamnet.vn.

13. VnEconomy (2025). “Hộ và cá nhân kinh doanh áp dụng hóa đơn điện tử: Dẫn dắt người nộp thuế bước ra ánh sáng”. Truy cập từ https://vneconomy.vn.

14. Báo Chính phủ (2025). “Nghị định 70/2025/NĐ-CP: sửa đổi, bổ sung quy định về hóa đơn, chứng từ”. Truy cập từ https://baochinhphu.vn.

15. Thời báo Tài chính Việt Nam (2025). “Khoảng 270.000 hộ kinh doanh sẽ phải sử dụng hóa đơn điện tử từ 1/6/2025”. Truy cập ngày 15/05/2025 từ https://thoibaotaichinhvietnam.vn.

Nguồn dữ liệu và báo cáo của địa phương:

16. Cục Thuế Hà Nội (2024). Báo cáo tổng kết công tác triển khai hóa đơn điện tử tại Hà Nội năm 2024. Hà Nội: Cục Thuế Hà Nội.

17. Cục Thuế TP.HCM (2024). Báo cáo tổng kết công tác triển khai hóa đơn điện tử từ máy tính tiền trên địa bàn TP.HCM năm 2024. TP.HCM: Cục Thuế TP.HCM.

18. Cục Thuế Đà Nẵng (2024). Báo cáo về tình hình triển khai hóa đơn điện tử từ máy tính tiền tại TP. Đà Nẵng năm 2024. Đà Nẵng: Cục Thuế Đà Nẵng.

Nguồn internet và các nền tảng điện tử khác:

19. VietnamPlus (2023). “Use of e-invoices generated from cash registers expanded nationwide”. Truy cập từ https://vietnamplus.vn.

20. Diễn đàn Doanh nghiệp (2024). “Tạo thuận lợi cho hộ kinh doanh sử dụng hóa đơn điện tử”. Truy cập từ https://diendandoanhnghiep.vn.

Nguồn tham khảo quốc tế và kinh nghiệm nước ngoài:

21. World Bank (2020). Electronic invoicing implementation: Global best practices and experiences. Washington, DC: World Bank.

22. OECD (2021). VAT/GST and e-invoicing: Policy and administration challenges. OECD Taxation Working Papers No. 51. OECD Publishing, Paris.

Bình Luận

© 2018 SAOVIETLAW.COM Bản quyền thuộc về công ty Công Ty Luật TNHH Sao Việt

logo-footer