Nghị định 70/2025/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/6/2025 đặt ra yêu cầu các hộ kinh doanh có doanh thu từ 01 tỉ đồng/năm trở lên phải sử dụng hóa đơn điện tử từ máy tính tiền kết nối dữ liệu với cơ quan thuế. Chính sách này nhằm minh bạch hóa doanh thu, chống thất thu thuế và tạo môi trường kinh doanh công bằng, hiện đại. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai tại Việt Nam, đã xuất hiện nhiều thủ đoạn gian lận tinh vi để né tránh nghĩa vụ thuế.

Bài viết tổng hợp và phân tích 6 kẽ hở chính mà nhiều hộ kinh doanh đang lợi dụng để gian lận thuế. Trên cơ sở phân tích thực trạng và nguyên nhân của những kẽ hở này, tác giả đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách quản lý thuế đối với hộ kinh doanh. Các kiến nghị nhấn mạnh sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật, ứng dụng công nghệ, tăng cường quản lý và hỗ trợ, tuyên truyền nhằm bảo đảm Nghị định 70/2025/NĐ-CP được thực thi hiệu quả, đóng góp tích cực vào ngân sách nhà nước và công bằng trong kinh doanh.

Mở đầu

Hộ kinh doanh cá thể là bộ phận kinh tế năng động nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro thất thu thuế do phương thức quản lý còn lỏng lẻo. Trước đây, nhiều hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán doanh thu ước tính, thiếu minh bạch và dễ dẫn đến việc khai man doanh thu thực tế. Trong bối cảnh chuyển đổi số, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định 123/2020/NĐ-CP yêu cầu triển khai hóa đơn điện tử trên phạm vi toàn quốc từ 2022, trước tiên áp dụng cho doanh nghiệp. Tiếp đó, Nghị định 70/2025/NĐ-CP được ban hành nhằm mở rộng đối tượng bắt buộc sử dụng hóa đơn điện tử sang khu vực hộ, cá nhân kinh doanh lớn. Cụ thể, từ ngày 01/6/2025, hộ kinh doanh có doanh thu từ 01 tỉ đồng/năm trở lên và thuộc các lĩnh vực bán lẻ, ăn uống, dịch vụ... phải xuất hóa đơn điện tử từ máy tính tiền kết nối thời gian thực với cơ quan thuế. Việc này đánh dấu bước chuyển quan trọng trong quản lý thuế đối với hộ cá thể, chuyển từ cơ chế thu thuế khoán sang kê khai theo doanh thu thực, góp phần nâng cao tính minh bạch và công bằng trong thực hiện nghĩa vụ thuế.

Chính sách mới kỳ vọng sẽ giúp chống thất thu thuế và hiện đại hóa quản lý hộ kinh doanh. Theo Tổng cục Thuế, từ ngày 01/6/2025 sẽ có khoảng 270.000 hộ kinh doanh trên cả nước thuộc diện phải áp dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền. Việc tích hợp hộ kinh doanh vào hệ thống hóa đơn điện tử là xu thế tất yếu, phù hợp với chiến lược chuyển đổi số quốc gia và thông lệ quốc tế. Trên thế giới, nhiều nước đã triển khai các hệ thống hóa đơn điện tử và thiết bị tính tiền để kiểm soát doanh thu bán lẻ; theo một báo cáo của KPMG, có đến 55 quốc gia đã áp dụng hoặc đang xem xét áp dụng chế độ hóa đơn điện tử bắt buộc nhằm tăng cường minh bạch thuế. Tại Việt Nam, Nghị định 70/2025/NĐ-CP (Nghị định 70) được đánh giá là bước tiến mạnh mẽ về pháp lý, hứa hẹn mang lại lợi ích lâu dài: Nhà nước tăng thu ngân sách, hộ kinh doanh được bảo vệ quyền lợi và thuận tiện tiếp cận tín dụng do có sổ sách rõ ràng.

Tuy nhiên, bên cạnh những kỳ vọng, thực tiễn triển khai Nghị định 70/2025/NĐ-CP cũng đang bộc lộ nhiều kẽ hở và thách thức. Một bộ phận hộ kinh doanh tìm cách lách luật, áp dụng các thủ đoạn tinh vi nhằm trốn tránh nghĩa vụ thuế. Những hành vi này không chỉ gây thất thu cho ngân sách mà còn làm suy giảm hiệu lực của chính sách, tạo môi trường cạnh tranh không lành mạnh giữa các hộ tuân thủ tốt và các hộ gian lận. Do vậy, việc nhận diện các kẽ hở chính trong thực hiện Nghị định 70, phân tích nguyên nhân và đề xuất giải pháp khắc phục là hết sức cần thiết vào lúc này.

Bài viết này tập trung làm rõ cơ sở lý luận và pháp lý của việc quản lý thuế hộ kinh doanh bằng hóa đơn điện tử, nhận diện tình hình thực tế và các kẽ hở chính sách phát sinh sau khi Nghị định 70 có hiệu lực, phân tích nguyên nhân gốc rễ của những hạn chế, và đề xuất các kiến nghị hoàn thiện. Mục tiêu là góp phần giúp các nhà hoạch định chính sách, cơ quan quản lý thuế và nhà làm luật có cái nhìn toàn diện hơn về những vấn đề đang đặt ra, từ đó có giải pháp phù hợp nâng cao hiệu quả quản lý thuế đối với hộ kinh doanh trong bối cảnh mới.

Cơ sở lý luận và pháp lý

Cơ sở lý luận

Quản lý thuế đối với khu vực kinh doanh nhỏ lẻ từ lâu là thách thức đối với nhiều quốc gia do đặc thù giao dịch tiền mặt, quy mô nhỏ và khó kiểm soát. Lý luận về tuân thủ thuế cho thấy việc minh bạch hóa doanh thu qua hóa đơn, chứng từ là biện pháp quan trọng để nâng cao tính tuân thủ và giảm thiểu gian lận thuế. Sử dụng hóa đơn điện tử kết hợp với thiết bị tính tiền kết nối trực tiếp đến cơ quan thuế giúp tạo ra dòng dữ liệu đồng bộ, kịp thời về doanh số bán lẻ, từ đó cơ quan thuế có thể giám sát và đối chiếu tốt hơn, thay vì phụ thuộc vào tờ khai trên cơ sở tự nguyện của người nộp thuế. Cách tiếp cận này thuộc nhóm giải pháp “kiểm soát giao dịch liên tục” (continuous transaction controls - CTC), tức là yêu cầu báo cáo dữ liệu hóa đơn theo thời gian thực hoặc gần thời gian thực, được áp dụng ngày càng nhiều trên thế giới nhằm chống thất thu thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập. Khi mọi giao dịch bán hàng được ghi nhận và truyền về hệ thống thuế gần như đồng thời, người bán khó có cơ hội che giấu doanh thu, qua đó tăng tính tuân thủ pháp luật thuế.

Cơ sở pháp lý tại Việt Nam

Luật Quản lý thuế năm 2019 (số 38/2019/QH14) đã đặt nền móng pháp lý cho việc chuyển đổi sang hóa đơn điện tử, yêu cầu mọi doanh nghiệp và tổ chức kinh tế phải sử dụng hóa đơn điện tử theo lộ trình thống nhất trên toàn quốc. Thực hiện Luật này, Chính phủ ban hành Nghị định 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 quy định chi tiết về hóa đơn, chứng từ, trong đó xác lập khung pháp lý cho việc quản lý, sử dụng hóa đơn điện tử. Nghị định 123/2020/NĐ-CP có hiệu lực từ 01/7/2022, đánh dấu mốc 100% doanh nghiệp chuyển sang hóa đơn điện tử. Tuy nhiên, khu vực hộ kinh doanh cá thể vẫn tạm thời chưa thuộc đối tượng bắt buộc theo Nghị định 123/2020/NĐ-CP, do đặc thù số lượng rất lớn (hơn 5 triệu hộ) và thói quen kinh doanh nhỏ lẻ. Đến ngày 20/3/2025, Chính phủ ban hành Nghị định 70/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung 123/2020/NĐ-CP, chính thức mở rộng đối tượng áp dụng hóa đơn điện tử sang hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh đủ điều kiện. Cụ thể, Nghị định 70 quy định hộ, cá nhân kinh doanh có doanh thu từ 01 tỉ đồng/năm trở lên và thuộc nhóm bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ trực tiếp đến người tiêu dùng (như bán lẻ, ăn uống, khách sạn, vận tải hành khách...) phải sử dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền, kết nối dữ liệu với cơ quan thuế từ 01/6/2025. Như vậy, thay vì nộp thuế khoán cố định như trước, những hộ kinh doanh quy mô tương đối lớn này sẽ chuyển sang phương thức kê khai thuế dựa trên doanh thu thực tế ghi nhận qua hóa đơn điện tử.

Mục tiêu của Nghị định 70 là minh bạch doanh thu, chống thất thu thuế và tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Chính sách này kỳ vọng sẽ đưa hàng trăm nghìn hộ kinh doanh vào diện quản lý thuế chặt chẽ hơn, giảm bớt khu vực phi chính thức trong nền kinh tế. Đồng thời, về lâu dài, việc hộ kinh doanh có hóa đơn đầy đủ giúp họ thuận lợi hơn trong chứng minh thu nhập, tiếp cận tín dụng và mở rộng kinh doanh. Nghị định 70 cũng quán triệt định hướng chuyển đổi số trong quản lý tài chính - thuế, khi áp dụng triệt để công nghệ vào giám sát hoạt động kinh doanh hộ gia đình. Có thể nói, hành lang pháp lý cơ bản đã được thiết lập, tạo căn cứ để cơ quan thuế triển khai các biện pháp quản lý mới đối với hộ kinh doanh.

Tuy nhiên, về chế tài xử lý vi phạm, hệ thống pháp luật hiện hành vẫn đang hoàn thiện. Luật Quản lý thuế và các văn bản dưới luật đã có quy định về xử phạt hành vi trốn thuế, sử dụng bất hợp pháp hóa đơn, kinh doanh không phép... nhưng trước bối cảnh mới, cần cập nhật để bao quát các hành vi gian lận mới nảy sinh (như can thiệp phần mềm, chia nhỏ doanh nghiệp để trốn tránh nghĩa vụ). Nghị định 70 chủ yếu quy định về đối tượng và phương thức áp dụng hóa đơn, chưa quy định chi tiết về chế tài đối với các thủ đoạn gian lận cụ thể, do đó việc xử lý vẫn phải dựa vào các quy định chung (phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, hoặc chế tài hình sự tội trốn thuế nếu đủ yếu tố cấu thành). Đây là khoảng trống cần lưu ý trong quá trình thực thi Nghị định 70.

Thực trạng và các kẽ hở chính sách

Mặc dù Nghị định 70/2025/NĐ-CP có hiệu lực chưa lâu, thực tế đã bộc lộ một số kẽ hở trong quản lý doanh thu hộ kinh doanh. Dưới đây là các thủ đoạn gian lận phổ biến mà một bộ phận hộ kinh doanh đang sử dụng nhằm trốn thuế hoặc giảm số thuế phải nộp:

Giấu doanh thu, không xuất hóa đơn đầy đủ

Đây là thủ đoạn đơn giản và phổ biến nhất. Hộ kinh doanh cố tình không xuất hóa đơn điện tử cho một phần giao dịch bán hàng, nhằm giấu bớt doanh thu thực tế. Ví dụ, trong ngày kinh doanh, chủ hộ chỉ in hóa đơn cho những khách yêu cầu hoặc thanh toán bằng thẻ, còn lại các giao dịch tiền mặt nhỏ lẻ thì không xuất hóa đơn, giữ tiền ngoài sổ sách. Hành vi này vi phạm trực tiếp quy định của Nghị định 70 yêu cầu mọi giao dịch đều phải có hóa đơn. Hệ quả là một phần doanh thu bị bỏ lọt, dẫn đến thất thu thuế và dữ liệu bán hàng bị sai lệch nghiêm trọng. Cơ quan thuế sẽ gặp khó khăn trong giám sát vì hệ thống chỉ nhận được doanh thu một phần, không phản ánh đúng thực trạng kinh doanh. Nếu bị phát hiện, hộ kinh doanh có thể bị xử phạt vi phạm hành chính do không xuất hóa đơn theo quy định và bị truy thu thuế cho phần doanh số giấu. Trường hợp doanh thu giấu giếm lớn và có dấu hiệu cố ý, hành vi này có thể bị xem xét truy cứu hình sự về tội trốn thuế. Hiện tượng khách hàng không yêu cầu lấy hóa đơn cũng tạo điều kiện cho thủ đoạn này tiếp diễn, do đó nó khá khó kiểm soát nếu không có biện pháp khuyến khích và giám sát phù hợp.

Khai giảm giá trị trên hóa đơn (sửa giá trị hóa đơn)

Ở thủ đoạn này, hộ kinh doanh vẫn xuất hóa đơn điện tử cho mỗi giao dịch nhưng ghi giá trị thấp hơn thực tế nhằm giảm số thuế phải nộp. Cách thức bao gồm: ghi giá bán trên hóa đơn thấp hơn số tiền thực thu từ khách; hoặc ghi thêm khoản “chiết khấu, khuyến mãi” giả tạo để giảm doanh thu; hoặc thậm chí hủy hóa đơn đã lập rồi lập lại hóa đơn mới với giá trị nhỏ hơn. Ví dụ, một cửa hàng điện tử bán tivi 15 triệu đồng nhưng trên hóa đơn chỉ ghi 10 triệu đồng, phần chênh lệch 5 triệu đồng thu trực tiếp từ khách mà không đưa vào hóa đơn. Hoặc một nhà hàng thu của khách 2 triệu đồng nhưng xuất hóa đơn 1,5 triệu đồng, lấy lý do giảm giá khuyến mãi 25% để hợp thức hóa việc giảm doanh thu. Thậm chí, có trường hợp sau khi xuất hóa đơn giá trị lớn, hộ kinh doanh hủy hóa đơn với lý do khách trả hàng, rồi âm thầm bán hàng đó cho người khác và xuất hóa đơn mới giá thấp hơn. Những hành vi này làm sai lệch dữ liệu doanh thu trên hệ thống hóa đơn điện tử, khiến cơ quan thuế tưởng như giao dịch đã ghi nhận đầy đủ nhưng thực chất giá trị bị giảm bớt. Việc phát hiện không dễ dàng nếu chỉ dựa trên dữ liệu hóa đơn, trừ khi cơ quan thuế tiến hành phân tích, so sánh giá bán với giá thị trường hoặc kiểm tra chéo chứng từ mua vào của hộ kinh doanh. Hộ vi phạm có thể bị xử phạt về hành vi lập hóa đơn sai nội dung, không trung thực và bị truy thu số thuế trốn. Nếu quy mô gian lận lớn, cố ý có hệ thống, người vi phạm có thể chịu trách nhiệm hình sự.

Chia nhỏ hộ kinh doanh để tránh ngưỡng doanh thu

Đây là thủ đoạn tinh vi và ngày càng phổ biến nhằm né tránh phạm vi điều chỉnh của Nghị định 70. Chủ cơ sở kinh doanh có doanh thu lớn không đăng ký một hộ kinh doanh duy nhất, mà cố tình tách ra thành nhiều hộ kinh doanh nhỏ trên giấy tờ, thường nhờ người thân đứng tên. Mục đích là để mỗi hộ khai doanh thu dưới 01 tỉ đồng/năm hầu tránh phải lắp máy tính tiền kết nối và hưởng thuế khoán thấp. Trên thực tế, các hộ này có thể cùng một chủ, hoạt động chung địa điểm và về bản chất là một doanh nghiệp thống nhất, nhưng về pháp lý lại tồn tại như những hộ riêng lẻ. Ví dụ điển hình: một chuỗi nhà hàng có doanh thu thực 05 tỉ đồng/năm nhưng chủ kinh doanh lập 5 giấy đăng ký hộ kinh doanh độc lập, mỗi hộ phụ trách một chi nhánh nhỏ (hoặc thậm chí chia theo từng khu vực trong cùng một nhà hàng). Mỗi hộ kê khai doanh thu khoảng 01 tỉ đồng/năm để nằm dưới ngưỡng phải dùng hóa đơn điện tử. Hoặc một cửa hàng bán lẻ lớn chia đôi thành hai hộ do hai người thân đứng tên, mỗi hộ khai một nửa doanh thu, nhờ đó cả hai đều thuộc diện hộ nhỏ nộp thuế khoán và không phải lắp máy tính tiền. Hành vi chia nhỏ này làm vô hiệu hóa mục tiêu chính sách, nhiều cơ sở kinh doanh lớn lại lọt khỏi diện giám sát doanh thu qua hóa đơn điện tử. Nhà nước thất thu thuế vì doanh thu bị “xé lẻ” để áp thuế suất thấp hơn. Về quản lý, cơ quan thuế rất khó nhận biết các hộ tưởng như độc lập thực chất là cùng một chủ, nếu không có điều tra sâu. Pháp luật hiện hành cũng chưa có quy định rõ để xử lý tình huống này, trừ khi chứng minh được các hộ có sự thông đồng trốn thuế có tổ chức - khi đó chủ cơ sở có thể bị xử lý về tội trốn thuế với tình tiết tăng nặng (phạm tội có tổ chức).

Gian lận kỹ thuật phần mềm (can thiệp vào máy tính tiền)

Đây là hình thức gian lận hiện đại và khó phát hiện hơn, dựa trên việc lợi dụng yếu tố kỹ thuật công nghệ nhằm qua mặt hệ thống kiểm soát. Hộ kinh doanh hoặc kỹ thuật viên có thể cài đặt chương trình “ẩn” (thường gọi là zapper) trên máy tính tiền hoặc phần mềm hóa đơn để tự động xóa, sửa dữ liệu một phần giao dịch trước khi gửi lên cơ quan thuế. Ngoài ra, có thủ đoạn cố ý ngắt kết nối internet hoặc chuyển sang chế độ ngoại tuyến trong giờ cao điểm bán hàng, để các giao dịch không được truyền lên hệ thống thuế kịp thời; sau đó kết nối lại và chỉ gửi dữ liệu chọn lọc. Một số trường hợp khác chỉnh sửa đồng hồ thời gian trên máy tính tiền để sai lệch thời điểm giao dịch, hoặc duy trì hai hệ cơ sở dữ liệu song song (một ghi thực tế đầy đủ, một đã lược bớt để báo cáo). Chẳng hạn, một cửa hàng cài phần mềm ẩn để tự động xóa 10% số giao dịch giá trị nhỏ mỗi ngày, nhờ đó giảm tương ứng doanh thu báo cáo. Hoặc chủ một quán bar cố tình rút dây mạng của máy POS vào buổi tối đông khách, sáng hôm sau cắm lại và báo cáo “mất kết nối” để không gửi nhiều hóa đơn đêm trước. Những mánh khóe kỹ thuật này rất tinh vi, dữ liệu gửi về cơ quan thuế trông có vẻ bình thường nên khó bị phát hiện qua giám sát tự động. Thực tiễn này đặt ra thách thức lớn cho quản lý thuế: cơ quan thuế cần năng lực công nghệ cao mới giám sát được, đòi hỏi đầu tư công cụ và nhân lực chuyên sâu. Hành vi can thiệp phần mềm nếu bị phát hiện được coi là gian lận có tổ chức, cố ý, đối tượng vi phạm sẽ chịu chế tài rất nặng. Ngoài phạt tiền và truy thu thuế, cơ quan chức năng có thể tịch thu các thiết bị, phần mềm dùng để gian lận; cá nhân vi phạm có thể bị truy tố hình sự về tội trốn thuế và tội vi phạm về công nghệ thông tin.

Mua bán hóa đơn điện tử

Đây là thủ đoạn gian lận có tổ chức đã tồn tại từ thời hóa đơn giấy và nay biến tướng sang hóa đơn điện tử. Hộ kinh doanh hoặc các đối tượng xấu có thể lập khống hóa đơn điện tử - tức phát hành hóa đơn cho các giao dịch không có thật – rồi bán những hóa đơn này cho đơn vị khác để bên mua hợp thức hóa chi phí hoặc gian lận thuế giá trị gia tăng đầu vào. Ngược lại, một số hộ kinh doanh có doanh thu lớn cũng có thể mua hóa đơn đầu ra của nơi khác để ghi nhận doanh thu thấp đi, nhờ đó giảm thuế phải nộp. Mặc dù hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế nên khó giả mạo hơn hóa đơn giấy, nhưng việc mua bán thông đồng giữa bên xuất và bên mua hóa đơn vẫn xảy ra, đặc biệt nếu cơ quan chức năng không giám sát chặt chẽ. Ví dụ, một hộ kinh doanh đăng ký bán hàng linh kiện nhưng thực tế không hoạt động gì nhiều, lại phát hành hàng loạt hóa đơn điện tử giá trị lớn cho các giao dịch “ma” rồi bán số hóa đơn này cho doanh nghiệp khác để doanh nghiệp kê chi phí khống. Hộ kinh doanh đó hưởng lợi tiền phần trăm bán hóa đơn, còn doanh nghiệp kia thì giảm được thuế phải nộp nhờ chi phí ảo. Hoặc một hộ kinh doanh có doanh thu cao tìm mua hóa đơn từ một hộ kinh doanh nhỏ (thuế suất thấp) để “chuyển” bớt phần doanh thu của mình sang hộ nhỏ kia, qua đó trốn một phần thuế. Hậu quả của việc mua bán hóa đơn là dữ liệu hóa đơn bị bóp méo nghiêm trọng, không phản ánh giao dịch thật, gây khó khăn cho công tác quản lý rủi ro thuế. Nhà nước có thể thất thu số thuế lớn (thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập) do các bên lợi dụng hóa đơn khống để qua mặt. Hành vi này rõ ràng vi phạm pháp luật: cả bên bán và bên mua hóa đơn đều phạm tội liên quan đến in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn chứng từ. Khi bị phát hiện, cơ quan thuế sẽ hủy các hóa đơn khống, truy thu toàn bộ số thuế đã trốn và phạt tiền rất nặng; các cá nhân liên quan có thể đối mặt án tù tùy mức độ vi phạm.

Kinh doanh không đăng ký (hoạt động “chui” ngoài hệ thống)

Một số cá nhân, cơ sở kinh doanh đã chọn cách tránh né hoàn toàn Nghị định 70 bằng việc không đăng ký kinh doanh dù có hoạt động thực tế. Thay vì lập hộ kinh doanh và chịu sự quản lý (phải xuất hóa đơn, nộp thuế), họ hoạt động bí mật, không khai báo, nhằm trốn mọi nghĩa vụ thuế. Nhóm này thường kinh doanh bằng tiền mặt, không có địa điểm cố định hoặc lợi dụng bán hàng online để khó bị kiểm soát. Ví dụ: một cá nhân bán hàng qua mạng (mỹ phẩm, quần áo...) doanh thu vài trăm triệu đồng/tháng nhưng không đăng ký hộ kinh doanh, không có mã số thuế, mọi giao dịch đều qua tài khoản cá nhân hoặc tiền mặt và không xuất bất kỳ hóa đơn nào. Hoặc một cơ sở dịch vụ ăn uống gia đình hoạt động nhiều năm tại nhà riêng nhưng chưa bao giờ xin giấy phép kinh doanh, nhờ vậy tránh phải lắp máy tính tiền và không bị cơ quan thuế kiểm tra. Những trường hợp này nằm hoàn toàn ngoài hệ thống quản lý, gây thất thu thuế 100%. Họ tạo sự bất công lớn đối với những hộ kinh doanh chấp hành tốt (phải nộp thuế đầy đủ trong khi người kinh doanh chui thì không). Từ góc độ quản lý, đây là thách thức rất nan giải bởi khó phát hiện hết các cá nhân kinh doanh không phép, nhất là trong thời đại kinh tế số và mô hình kinh doanh nhỏ, linh hoạt hiện nay. Về pháp lý, khi bị phát hiện, các đối tượng này sẽ bị xử phạt vì kinh doanh không đăng ký và hành vi trốn thuế tương ứng với doanh thu bỏ ngoài sổ sách. Cơ quan thuế có quyền truy thu thuế dựa trên doanh thu ước tính cùng tiền phạt chậm nộp. Nếu quy mô kinh doanh “chui” lớn, người vi phạm có thể bị truy cứu hình sự về tội trốn thuế và kinh doanh trái phép. Song, do hoạt động hoàn toàn ngoài luồng nên việc răn đe và phát hiện nhóm này đòi hỏi nỗ lực liên ngành và công nghệ cao.

Những hành vi gian lận trên đã đe dọa làm suy giảm hiệu quả của chính sách, gây thất thu cho ngân sách nhà nước và ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường kinh doanh lành mạnh. Chúng cho thấy tính phức tạp của việc quản lý thuế hộ kinh doanh: chỉ ban hành quy định là chưa đủ, mà còn cần lường trước các phương thức né tránh và có giải pháp đối phó phù hợp.

Phân tích nguyên nhân

Những kẽ hở và hành vi gian lận trong thực hiện Nghị định 70/2025/NĐ-CP xuất phát từ nhiều nguyên nhân đan xen, bao gồm cả yếu tố chủ quan lẫn khách quan. Có thể khái quát một số nguyên nhân chính như sau:

Lỗ hổng trong quy định pháp luật hiện hành

Một số quy định pháp luật chưa đầy đủ hoặc chưa chặt chẽ tạo khoảng trống cho đối tượng lợi dụng. Chẳng hạn, ngưỡng doanh thu 01 tỉ đồng/năm vô hình trung tạo động cơ cho hành vi chia nhỏ hộ kinh doanh để né ngưỡng. Pháp luật thuế hiện chưa có tiêu chí nhận diện và gộp các hộ kinh doanh có liên quan (chung chủ, chung địa điểm...) thành một đối tượng nộp thuế, dẫn đến kẽ hở pháp lý cho phép “lách luật”. Tương tự, quy định về hủy, điều chỉnh hóa đơn còn tương đối linh hoạt (cho phép hủy hóa đơn nếu “sai sót” mà chưa có giới hạn chặt chẽ) khiến kẻ gian lợi dụng để chỉnh sửa doanh thu sau khi bán hàng. Chế tài xử phạt một số hành vi như không xuất hóa đơn, lập hóa đơn sai cũng có thể chưa đủ sức răn đe so với lợi ích trốn thuế (mức phạt tiền hiện hành có trần, trong khi số thuế trốn có thể lớn hơn nhiều). Nhìn chung, khuôn khổ pháp luật chưa lường hết các tình huống gian lận mới, nên chưa có quy định đặc thù để ngăn chặn ngay từ đầu.

Hạn chế trong năng lực quản lý và thực thi

Việc triển khai một chính sách mới quy mô lớn như Nghị định 70 đòi hỏi cơ quan thuế phải có nguồn lực và công nghệ phù hợp. Hiện nay, năng lực giám sát dữ liệu thời gian thực và phân tích rủi ro của cơ quan thuế còn đang trong quá trình hoàn thiện. Điều này khiến một số thủ đoạn tinh vi (như can thiệp phần mềm, chỉnh sửa dữ liệu) chưa bị phát hiện kịp thời, tạo tâm lý “lọt lưới” cho đối tượng vi phạm. Bên cạnh đó, lực lượng quản lý thuế còn mỏng so với số lượng hàng triệu hộ kinh doanh, khó tổ chức kiểm tra thường xuyên mọi nơi. Sự phối hợp giữa cơ quan thuế với chính quyền địa phương, cơ quan công an kinh tế ở một số nơi chưa thật sự chặt chẽ, dẫn đến khoảng trống trong giám sát thực tế - nhiều hộ kinh doanh không phép tồn tại mà không bị xử lý kịp thời.

Yếu tố kỹ thuật và hạ tầng công nghệ

Việc áp dụng hóa đơn điện tử qua máy tính tiền đòi hỏi hạ tầng kỹ thuật đồng bộ cả từ phía cơ quan thuế lẫn người nộp thuế. Trong giai đoạn đầu triển khai, hệ thống kỹ thuật có thể chưa tối ưu, một số lỗ hổng kỹ thuật (bug phần mềm, quy trình kết nối chưa chặt) có thể bị khai thác. Hộ kinh doanh sử dụng các phần mềm tính tiền đa dạng và không loại trừ có phần mềm bảo mật kém, dễ bị cài đặt chương trình gian lận. Ngoài ra, chưa có quy định bắt buộc về chứng nhận phần mềm khiến thị trường thiết bị tính tiền hơi khó kiểm soát, hộ kinh doanh có thể dùng phần mềm chưa được thẩm định và lợi dụng để chỉnh sửa dữ liệu. Hơn nữa, việc truyền dữ liệu hóa đơn phụ thuộc vào kết nối internet - nếu hệ thống chưa có cơ chế xử lý khi mất kết nối (ví dụ chưa cảnh báo kịp thời khi thiết bị ngoại tuyến), đối tượng có thể lợi dụng như đã nêu.

Động cơ trốn thuế và lợi ích kinh tế

Ở góc độ hộ kinh doanh, lợi ích từ việc trốn thuế vẫn đủ lớn để thúc đẩy họ tìm cách gian lận. Nhiều hộ kinh doanh hoạt động trong môi trường cạnh tranh cao, lợi nhuận biên mỏng, nên việc giảm được thuế phải nộp sẽ giúp họ tăng thu nhập đáng kể. Văn hóa kinh doanh tiền mặt lâu năm cũng khiến không ít hộ coi nhẹ nghĩa vụ thuế, sẵn sàng mạo hiểm lách luật nếu có thể. Đặc biệt, đối với hành vi mua bán hóa đơn, lợi nhuận thu được từ việc bán hóa đơn khống (lấy phần trăm giá trị hóa đơn) rất hấp dẫn, hình thành “thị trường ngầm” tiếp tay cho gian lận. Bên cạnh đó, một số hộ kinh doanh đánh giá nguy cơ bị phát hiện là thấp (do cơ quan thuế khó kiểm tra hết) nên càng mạnh dạn vi phạm. Như vậy, lòng tham và tính toán kinh tế của người nộp thuế là nguyên nhân trực tiếp của các hành vi gian lận, đặc biệt khi họ nhận thấy khả năng chi phí bị phạt nhỏ hơn lợi ích trốn thuế.

Hạn chế về nhận thức và thói quen tuân thủ

Nhiều hộ kinh doanh cá thể có hiểu biết pháp luật hạn chế hoặc chưa có thói quen ghi chép, xuất hóa đơn. Đặc biệt, bộ phận chủ hộ lớn tuổi, buôn bán nhỏ lẻ lâu năm thường ngại thay đổi thói quen kinh doanh. Họ có thể không nhận thức hết tầm quan trọng của việc xuất hóa đơn đầy đủ, hoặc chưa quen sử dụng thiết bị điện tử nên tìm cách né tránh cho “đỡ phiền phức”. Tâm lý này dẫn tới tình trạng chậm thích ứng, thậm chí một số hộ chọn cách “bỏ trốn” khỏi hệ thống chính thức (kinh doanh ngầm) thay vì tuân thủ. Mặt khác, từ phía người mua hàng, văn hóa tiêu dùng chưa có thói quen đòi hỏi hóa đơn cũng góp phần tiếp tay cho hộ kinh doanh giấu doanh thu. Tất cả cho thấy vấn đề nhận thức và văn hóa tuân thủ của cả người kinh doanh lẫn người tiêu dùng còn hạn chế, tạo mảnh đất cho các kẽ hở tồn tại.

Yếu tố chi phí tuân thủ và hỗ trợ ban đầu

Việc trang bị máy tính tiền, máy in hóa đơn, kết nối internet... đòi hỏi hộ kinh doanh bỏ ra chi phí đầu tư ban đầu. Dù thiết bị tính tiền phổ biến có giá từ 1-2 triệu đồng/máy và có phần mềm miễn phí, nhưng với hộ nhỏ, đây vẫn là gánh nặng tài chính, nhất là trong bối cảnh kinh doanh khó khăn. Nhiều hộ phản ánh việc phải cập nhật doanh thu hàng ngày, hàng tuần lên hệ thống cũng làm tăng khối lượng công việc. Nếu thiếu sự hỗ trợ, một số hộ có thể chọn cách trốn tránh (như không đăng ký kinh doanh hoặc cố tình không thực hiện đầy đủ) để khỏi tốn chi phí và công sức. Ngoài ra, công tác hướng dẫn, tập huấn ban đầu ở một số nơi chưa đến được tất cả hộ kinh doanh, dẫn tới tình trạng lúng túng, ngại thực hiện. Khi không được hỗ trợ đầy đủ, hộ kinh doanh dễ sinh tâm lý chán nản và tìm cách đối phó cho xong.

Tóm lại, các nguyên nhân dẫn đến kẽ hở chính sách rất đa chiều: từ hạn chế của luật pháp, năng lực quản lý, hạ tầng công nghệ cho đến động cơ kinh tế và ý thức tuân thủ của người nộp thuế. Hiểu rõ những nguyên nhân này giúp chúng ta đề ra được những giải pháp phù hợp và toàn diện hơn.

Kiến nghị hoàn thiện chính sách

Để bịt các kẽ hở nêu trên và bảo đảm Nghị định 70/2025/NĐ-CP đạt được mục tiêu đề ra, cần một hệ thống giải pháp đồng bộ trên nhiều phương diện. Dưới đây là các kiến nghị trọng tâm nhằm hoàn thiện chính sách quản lý thuế đối với hộ kinh doanh:

Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật

Trước tiên, cần bổ sung và sửa đổi các quy định pháp luật để lấp đầy những khoảng trống đã bộc lộ. Cụ thể, xem xét ban hành quy định chống chia nhỏ hộ kinh doanh một cách giả tạo: nếu nhiều hộ có quan hệ gia đình, cùng địa điểm và kinh doanh cùng loại hàng hóa/dịch vụ, cơ quan thuế có thể xác định họ là một đối tượng nộp thuế hợp nhất để chống trốn thuế. Quy định này sẽ ngăn chặn hành vi tách hộ để né ngưỡng ngay từ đầu. Tiếp đó, cần siết chặt các quy định về lập, hủy và điều chỉnh hóa đơn. Chẳng hạn, giới hạn rõ ràng các trường hợp được phép hủy hoặc sửa hóa đơn và trong khoảng thời gian ngắn sau khi lập; mọi trường hợp điều chỉnh phải có lý do chính đáng và báo cáo cơ quan thuế. Đồng thời, tăng nặng chế tài xử phạt đối với hành vi không xuất hóa đơn, lập hóa đơn sai nội dung, sử dụng hóa đơn khống... Mức phạt tiền nên đủ sức răn đe, tương xứng với số thuế trốn (thậm chí phạt theo % doanh thu giấu). Đối với các hành vi nguy hiểm như mua bán hóa đơn điện tử, can thiệp phần mềm để gian lận, cần quy định rõ đây là hành vi gian lận thuế nghiêm trọng để làm cơ sở truy cứu hình sự khi vượt ngưỡng nhất định. Ngoài ra, cần bổ sung quy định yêu cầu chứng nhận phần mềm máy tính tiền: chỉ cho phép hộ kinh doanh sử dụng các phần mềm thiết bị tính tiền đã được cơ quan có thẩm quyền thẩm định đạt chuẩn (bảo đảm lưu trữ dữ liệu, chống sửa/xóa).

Tăng cường ứng dụng công nghệ và cải tiến hệ thống quản lý

Cơ quan thuế cần đầu tư xây dựng các công cụ kỹ thuật thông minh để giám sát và phân tích dữ liệu hóa đơn điện tử hiệu quả hơn. Trước hết, hệ thống quản lý hóa đơn nên tích hợp chức năng theo dõi và cảnh báo: ví dụ, tự động gửi cảnh báo đến cán bộ thuế nếu phát hiện một hộ kinh doanh có tỉ lệ hủy/sửa hóa đơn bất thường hoặc doanh thu báo cáo giảm đột ngột so với trước. Hệ thống cũng nên giám sát trạng thái kết nối của thiết bị tính tiền: nếu máy của hộ nào báo ngoại tuyến quá thường xuyên hoặc vào giờ cao điểm, cần đánh dấu để kiểm tra. Bên cạnh đó, áp dụng các giải pháp phân tích dữ liệu lớn (Big Data): xây dựng cơ sở dữ liệu liên thông giữa cơ quan thuế với ngân hàng, sàn thương mại điện tử, đơn vị cung cấp thiết bị... để đối chiếu chéo thông tin. Ví dụ, đối chiếu số lượng hóa đơn phát hành với dữ liệu doanh thu qua máy quét thẻ ngân hàng, hoặc so sánh doanh thu giữa các hộ cùng ngành để phát hiện hộ nào báo doanh thu thấp bất thường. Một biện pháp quan trọng là triển khai mã định danh và chữ ký số cho dữ liệu hóa đơn ngay tại thời điểm phát sinh; mỗi hóa đơn khi lập cần gắn mã/chữ ký số chống chối bỏ, việc này sẽ ngăn ngừa việc chỉnh sửa dữ liệu hóa đơn sau khi giao dịch đã xảy ra. Đồng thời, cơ quan thuế nên hợp tác với các chuyên gia công nghệ phát triển thuật toán phát hiện chuỗi giao dịch đáng ngờ - chẳng hạn nhận biết nếu có mô hình “mua bán hóa đơn” giữa một nhóm hộ kinh doanh và doanh nghiệp (thông qua phân tích mạng lưới các bên lập hóa đơn cho nhau bất thường). Việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ sẽ giúp “đi trước một bước” so với kẻ gian, giảm tính ỷ lại vào kiểm tra thủ công.

Nâng cao hiệu quả công tác quản lý và thanh tra thuế

Song song với giải pháp công nghệ, cần tổ chức lại và tăng cường năng lực bộ máy quản lý thuế đối với hộ kinh doanh. Cơ quan thuế nên thành lập các đội thanh tra, kiểm tra chuyên đề về hóa đơn điện tử cho hộ kinh doanh, trong đó có nhóm chuyên trách về kiểm tra kỹ thuật công nghệ thông tin. Những đội này sẽ thực hiện kiểm tra đột xuất tại các hộ kinh doanh có dấu hiệu nghi ngờ (do hệ thống cảnh báo hoặc do tố giác). Đặc biệt, với thủ đoạn công nghệ cao, có thể phối hợp giữa cơ quan thuế với công an kinh tế, lực lượng an ninh mạng để điều tra, truy vết các phần mềm gian lận và xử lý người cung cấp nếu có đường dây. Về quản lý địa bàn, cần phối hợp chặt chẽ với chính quyền cơ sở (phường/xã, quận/huyện) để rà soát các hộ kinh doanh chưa đăng ký, kịp thời phát hiện hoạt động “chui”. Có thể định kỳ tổ chức các đợt ra quân kiểm tra tại chợ, tuyến phố, khu dân cư... nhằm phát hiện và nhắc nhở những hộ chưa tuân thủ việc lắp thiết bị tính tiền hoặc không đăng ký kinh doanh. Ngoài ra, cơ quan thuế cần đào tạo, tập huấn cho cán bộ về những phương thức gian lận mới, kỹ năng phân tích dữ liệu và sử dụng công nghệ giám sát hiện đại. Khi đội ngũ cán bộ hiểu rõ các dấu hiệu rủi ro (ví dụ tỉ lệ lợi nhuận bất thường thấp, tần suất hủy hóa đơn cao...), họ sẽ chủ động hơn trong việc thanh tra kịp thời. Một khía cạnh khác là điều chỉnh quy trình nghiệp vụ: nên có hướng dẫn nội bộ về việc xử lý các tình huống như nghi ngờ hộ kinh doanh liên kết trốn thuế, nghi ngờ can thiệp phần mềm... để bảo đảm thống nhất và nhanh chóng trong toàn ngành thuế.

Hỗ trợ và khuyến khích người nộp thuế tuân thủ

Cùng với biện pháp “phạt gậy” cứng rắn, chính sách cũng cần có “củ cà rốt” hỗ trợ hộ kinh doanh thực thi. Trước hết, Nhà nước có thể xem xét hỗ trợ tài chính ban đầu cho hộ kinh doanh trong việc chuyển đổi: như miễn, giảm thuế trong 01-02 quý đầu triển khai hóa đơn điện tử, hoặc trợ cấp một phần chi phí mua thiết bị tính tiền. Điều này giúp giảm áp lực chi phí, tạo thiện chí cho hộ kinh doanh hợp tác. Tiếp theo, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn. Cơ quan thuế nên phối hợp với các tổ chức (như hội doanh nghiệp nhỏ, các hãng cung cấp phần mềm) tổ chức các khóa tập huấn miễn phí, hướng dẫn trực tiếp cho hộ kinh doanh về cách sử dụng thiết bị, phần mềm, cách lập hóa đơn điện tử.... Việc tập huấn cần linh hoạt về thời gian, địa điểm (tại chợ, khu phố) và nội dung dễ hiểu, thực hành cụ thể để ngay cả người ít hiểu biết công nghệ cũng có thể làm được. Mặt khác, tăng cường tuyên truyền qua truyền thông đại chúng về lợi ích của hóa đơn điện tử và nghĩa vụ của hộ kinh doanh. Đặc biệt nhấn mạnh rằng tuân thủ sẽ giúp hộ kinh doanh quản lý tốt hơn và tránh rủi ro pháp lý nặng nề. Song song, cần nâng cao nhận thức của người tiêu dùng: khuyến khích người mua hàng đòi hóa đơn để bảo vệ quyền lợi (đổi trả hàng, bảo hành...) và góp phần chống gian lận thuế. Có thể triển khai chương trình khuyến khích lấy hóa đơn như quay số trúng thưởng dựa trên mã số hóa đơn điện tử của hộ kinh doanh. Mô hình “hóa đơn may mắn” này đã áp dụng hiệu quả với hóa đơn doanh nghiệp, giờ mở rộng sang hộ kinh doanh sẽ tạo động lực cho người dân yêu cầu hóa đơn, khiến hộ kinh doanh khó giấu doanh thu hơn.

Phát huy vai trò của cộng đồng và giám sát xã hội

Cuối cùng, cần tạo dựng một môi trường tuân thủ chung và cơ chế giám sát nhiều tầng. Có thể thiết lập đường dây nóng hoặc cổng thông tin để người dân phản ánh những trường hợp hộ kinh doanh có dấu hiệu gian lận (không xuất hóa đơn, bán hàng không đăng ký...). Cơ quan thuế cần phản hồi và xử lý kịp thời các tin báo này để tạo niềm tin cho xã hội. Mặt khác, có thể khen thưởng những hộ kinh doanh tuân thủ tốt, làm gương cho cộng đồng. Các hiệp hội ngành nghề, tổ chức xã hội cũng nên tham gia vận động hội viên thực hiện đúng quy định, coi đó là tiêu chí đánh giá uy tín kinh doanh. Khi hình thành được văn hóa tuân thủ tự giác trong cộng đồng hộ kinh doanh, hiệu quả chính sách sẽ bền vững hơn rất nhiều.

Tổng hợp các giải pháp trên, có thể thấy cần sự kết hợp chặt chẽ giữa hoàn thiện pháp luật, nâng cấp công nghệ, tăng cường quản lý thực tiễn và hỗ trợ tuyên truyền. Chỉ khi đồng bộ trên tất cả các phương diện này thì những kẽ hở nêu ra mới được thu hẹp tối đa, giảm thiểu cơ hội cho hành vi gian lận.

Kết luận

Nghị định 70/2025/NĐ-CP ra đời thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc hiện đại hóa và minh bạch hóa công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh - một lĩnh vực từ trước tới nay khó kiểm soát. Chính sách mới mang lại kỳ vọng lớn về tăng thu ngân sách, tạo sự công bằng giữa các thành phần kinh tế và thúc đẩy chuyển đổi số trong kinh doanh hộ cá thể. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai đã cho thấy không ít thử thách, khi một bộ phận người nộp thuế tìm cách vượt qua hệ thống bằng những thủ đoạn tinh vi. Những kẽ hở như giấu doanh thu, khai man hóa đơn, chia nhỏ hộ, gian lận phần mềm, mua bán hóa đơn hay hoạt động “chui” đòi hỏi cơ quan quản lý phải phản ứng kịp thời và có giải pháp hiệu quả.

Để Nghị định 70 thực sự phát huy tác dụng, việc hoàn thiện chính sách và tổ chức thực thi là yếu tố quyết định. Như phân tích, cần một chiến lược toàn diện kết hợp pháp luật nghiêm minh, công nghệ hiện đại và quản lý chủ động. Pháp luật chặt chẽ sẽ làm hạn chế “khe hở” để gian lận; công nghệ thông minh giúp phát hiện nhanh các dấu hiệu bất thường; quản lý chủ động, phối hợp liên ngành bảo đảm xử lý nghiêm các vi phạm. Cùng với đó, nâng cao nhận thức và hỗ trợ người nộp thuế đóng vai trò quan trọng trong việc tạo dựng văn hóa tuân thủ. Khi hộ kinh doanh hiểu rõ lợi ích của việc xuất hóa đơn, người tiêu dùng quen đòi hóa đơn và xã hội lên án hành vi trốn thuế, thì chính sách sẽ đi vào đời sống một cách bền vững.

TS. LS. NGUYỄN QUANG ANH

Công ty luật TNHH Sao Việt

Nguồn: flsvn.vn/quan-ly-thue-doi-voi-ho-kinh-doanh-theo-nghi-dinh-70-2025-nd-cp-thuc-trang-ke-ho-phap-ly-va-kien-nghi-hoan-thien-a159318.html

Bình Luận

© 2018 SAOVIETLAW.COM Bản quyền thuộc về công ty Công Ty Luật TNHH Sao Việt

logo-footer