Mặc dù pháp luật quy định rất rõ nguyên tắc “thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, nhưng trên thực tế đang có không ít “rào cản vô hình” đối với những người “cầm cân nảy mực”…
Hình ảnh mang tính chất minh họa (Nguồn: Internet)
Từ một bản án bị kháng cáo …
Ngày 19, 20 và 25/1/2016, TAND TP.Thái Nguyên đưa ra xét xử vụ án lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ theo Điều 281 Bộ luật hình sự (BLHS) xảy ra tại Công ty Cổ phần luyện cán thép Gia Sàng (Thái Nguyên).
Theo hồ sơ vụ án, ngày 12/4/2013, Công ty Cổ phần luyện cán thép Gia Sàng (Cty Gia Sàng) thực hiện việc xuất bán sắt thép phế liệu theo hợp đồng cho Công ty TNHH dịch vụ Thương mại Trang Oanh (Cty Trang Oanh). Cùng ngày hôm đó lãnh đạo Cty Gia Sàng cũng đã đồng ý cho xe vào thu gom xỉ cắt phôi (rác thải công nghiệp) để cho công nhân (theo văn bản ký duyệt trước đó).
Sáng 12/4/2013, lái xe ôtô BKS 20K-5768 đã xuất trình văn bản đề nghị trên cho bảo vệ cổng của Cty Gia Sàng để vào Cty bốc hàng. Khi xe đến nơi đổ hàng thì bị cơ quan công an thu giữ giao trả toàn bộ hàng cho Cty Gia Sàng, vì hàng trên xe là sắt thép phế không phải là xỉ cắt phôi.
Sau đó, Công an tỉnh Thái Nguyên khởi tố, bắt tạm giam đối với Lê Xuân Hộ - nguyên Phó Tổng Giám đốc Cty Gia Sàng cùng một số cá nhân khác, vì cho rằng họ đã để cho xe ôtô trên vào lấy sắt thép phế liệu trái quy định của Cty.
Tại phiên tòa sơ thẩm, HĐXX tuyên bị cáo Hộ 5 năm tù, các bị cáo khác 2 năm tù. Sau phiên tòa, một số bị cáo đã kháng cáo.
Bản án ghi tại phiên tòa thể hiện các bị cáo Huấn, Vang khai là họ biết việc bốc hàng của chiếc xe trên là sai, biết những người đi theo xe là người nhà ông Hộ; hai người này thừa nhận cáo trạng truy tố đối với họ là đúng. Trong khi, thực tế tại tòa, bị cáo Huấn, Vang khai họ đều nghĩ việc bốc hàng lên chiếc xe trên là hoàn toàn bình thường, bởi xe qua cổng bảo vệ tức là đã đầy đủ giấy tờ, thủ tục thì mới được vào bốc hàng; việc truy tố họ với tội danh trên là quá nặng.
Phân tích những dấu hiệu của tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”
Sau phiên tòa sơ thẩm, bà Vũ Thị Kiều Oanh (vợ bị cáo Hộ) có đơn gửi các cơ quan chức năng tố cáo thẩm phán chủ tọa. Bà Oanh cho rằng khi xét hỏi, thẩm phán này nhiều lần đe dọa Vang, Huấn, Thắng phải giữ nguyên lời khai nhận tội tại CQĐT. Đặc biệt, sau đó bà thẩm phán còn “làm méo” nội dung biên bản phiên tòa để ngụy tạo chứng cứ buộc tội và che đậy sai phạm của bản thân cũng như của điều tra viên.
Thẩm phán này còn che đậy đi hành vi làm sai lệch hồ sơ vụ án bằng nhiều “thủ thuật” khác như “vận động” bà Oanh không thuê luật sư bào chữa cho ông Hộ; không cho luật sư sao chụp một số biên bản ghi lời khai quan trọng của vụ án, đến khi các biên bản này được công bố tại tòa thì bị các nhân chứng này phản đối ngay vì sai sự thật...
Luật sư Nguyễn Quang Anh – Giám đốc Công ty Luật TNHH Sao Việt, Đoàn luật sư TP.Hà Nội (người bào chữa cho bị cáo Hộ) cho biết: “Trong vụ án này, có những vấn đề mấu chốt cho thấy bị cáo Hộ không phạm tội, cụ thể: Trong hồ sơ cũng như phần thẩm vấn tại phiên tòa, không có bất cứ chứng cứ nào thể hiện việc bị cáo Hộ điều động người của Cty Gia Sàng bốc hàng lên xe ôtô 20K-5768 để đem đi tiêu thụ. Trái lại, có căn cứ cho thấy phía người giao hàng và người nhận hàng đơn giản chỉ là nhầm lẫn về đối tượng hàng hóa giao nhận (bên giao tưởng là xe ôtô trên vào Cty để bốc hàng cho Cty Trang Oanh, còn bên nhận (là những người làm thuê) không đọc văn bản đề nghị nên cũng không để ý gì đến sự khác biệt giữa hàng đã nhận là sắt thép phế chứ không phải là xỉ cắt phôi.
Mặt khác, giả sử có việc các bị cáo để cho xe ôtô trên vào lấy sắt thép phế liệu trái quy định thì các bị cáo cũng không phạm tội như quy kết của bản án sơ thẩm được bởi Cty Gia Sàng không phải Cty nhà nước nên không có yếu tố lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ được; hơn nữa thiệt hại thực tế không xảy ra (đây đều là những yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội theo Điều 281 BLHS.
PV: Theo luật sư, vì sao lại có tình trạng tòa án “ngại” tuyên các bị cáo vô tội?
Luật sư Quang Anh: “Từng tham gia bào chữa trong nhiều vụ án hình sự, tôi nhận thấy tồn tại một thực tế là dù vụ án cho thấy bị cáo không phạm tội đi chăng nữa thì việc Tòa án tuyên vô tội ngay là điều rất khó xảy ra. Nguyên nhân chủ yếu nằm ở chỗ khi Tòa án thụ lý vụ án thì đã qua nhiều giai đoạn tố tụng (điều tra, truy tố, xét xử) và những cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) đều đã “trót” quy kết bị cáo, cho nên nếu Tòa án tuyên vô tội thì nhiều cơ quan và người tiến hành tố tụng sẽ phải chịu trách nhiệm. Vì vậy, các thẩm phán thường “né” để tránh làm “tổn thương” các cơ quan và người tiến hành tố tụng khác bằng cách đưa ra biện pháp “trung dung” là trả hồ sơ điều tra bổ sung (giai đoạn sơ thẩm) hoặc tuyên hủy án để điều tra, xét xử lại (phúc thẩm), qua đó tạo điều kiện cho các CQTHTT đã làm oan có cơ hội tự đình chỉ vụ án.
Phải thừa nhận một thực tế là các CQTHTT phải xử lý khối lượng công việc rất lớn và sai sót là điều khó tránh khỏi. Từ đó, phần nào có thể hiểu được tâm lý “thông cảm” giữa các cơ quan và người tiến hành tố tụng với nhau. Tuy nhiên, theo tôi, cơ quan và người tiến hành tố tụng phải tự đặt mình vào phía người bị oan – vì sai sót công tác của người khác mà họ trở thành tội phạm, chịu những hậu quả như bị rơi vào cảnh tù tội, gia đình, công danh sự nghiệp tiêu tan...Những hậu quả đó lớn hơn rất nhiều so với việc bị kiểm điểm vì những sai sót trong công tác đối với người tiến hành tố tụng”.
PV: Theo ông thì có biện pháp nào để khắc phục tình trạng này?
Luật sư Quang Anh: “Có nhiều giải pháp, nhưng theo tôi, điều trước tiên là cần xác định và thực hiện nghiêm túc quy định về trách nhiệm bồi thường của Tòa án đối với việc kết tội oan, sai. Cụ thể, theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước thì, cá nhân có thẩm quyền của Tòa án sẽ phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại phát sinh trong khoảng thời gian từ khi quyết định “trung dung” đó được đưa ra cho đến khi bị can, bị cáo được xác định là không thực hiện hành vi phạm tội. Từ đó, người thẩm phán sẽ phải cân nhắc giữa một bên là việc “ngại” làm ảnh hưởng tới cơ quan và người tiến hành tố tụng khác và một bên là chính mình phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả làm oan người vô tội.
Phong Anh