Chào luật sư! Tôi là mẹ của cháu S (13 tuổi). Vừa qua chồng tôi có dẫn cháu đến Bệnh viện nhi trung ương. Tại đây, khi đang đứng cùng cháu S đứng ở quầy thuốc, chồng tôi đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại của anh Q. Sau khi lấy được điện thoại của anh Q, chồng tôi đã đưa cho cháu S bảo mang đi giấu. Nghe lời bố, cháu S đã mang đi giấu tại một bụi cỏ trong bệnh viện và về kể lại cho chồng tôi cụ thể nơi cất giấu. Chiếc điện thoại đó chồng tôi có mang đi bán được 03 triệu đồng. Sau đó anh Q đi trình báo công an và họ đã triệu tập chồng tôi lên làm việc. Hiện tôi đang lo lắng không biết liệu con tôi là cháu S có bị xử lý và đi tù như chồng tôi hay không? Xin luật sư hãy xem xét và giải đáp giúp tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn luật sư!
Hình ảnh chỉ mang tính minh họa. Nguồn: Internet.
Trả lời:
Chào chị! Cảm ơn chị đã gửi câu hỏi đến Luật Sao Việt, dựa trên những thông tin mà chị cung cấp, chúng tôi xin đưa ra quan điểm tư vấn như sau:
Trong vụ án này, người thực hiện hành vi trộm cắp chiếc điện thoại của anh Q là chồng chị. Giá trị chiếc điện thoại là 3 triệu đồng. Do đó, chồng chị đã phạm tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
đ) Tài sản là di vật, cổ vật.”
Ngoài ra, việc anh T kêu cháu S đi giấu chiếc điện thoại còn có thể bị xem xét áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội” theo quy định tại điểm o khoản 1 điều 52 BLHS.
Đối với cháu S, cháu là người đứng cùng anh T, nhìn thấy việc anh T lấy trộm điện thoại của người khác và giúp anh T bằng việc đã mang đi cất giấu. Đây là hành vi giúp sức cho việc thực hiện trộm cắp. Tuy nhiên theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 thì độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”
Do cháu S hiện mới 13 tuổi, không thuộc các trường hợp phải chịu trách nhiệm hình sự và do chưa có nhận thức đầy đủ về hành vi của mình nên hành vi giúp sức của cháu S sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên chị cũng cần thực hiện các biện pháp giáo dục để cháu S nhận thức được hành vi sai trái, tránh hậu quả đáng tiếc về sau.
Để nhận được ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, bạn đọc vui lòng liên hệ với các Luật sư, chuyên viên pháp lý của Công ty Luật TNHH Sao Việt qua:
Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6243
E-mail: congtyluatsaoviet@gmail.com