Tôi muốn hỏi về việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với trẻ vị thành niên. Theo như tôi được biết thì hiện nay người chưa thành niên nếu có phạm tội thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu từ đủ 16 tuổi trở lên. Vậy tôi có một băn khoăn những trường hợp người phạm tội dưới 16 tuổi thì có bị truy cứu hình sự không? Bởi vì thực tế có nhiều vụ án như trộm cắp, giết người, hay gây thương tích rất nghiêm trọng xảy ra do người dưới 16 tuổi thực hiện. Mong được giải đáp.
Ảnh minh họa, nguồn: Internet.
Trả lời:
Chào bạn. Cám ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Công ty Luật TNHH Sao Việt. Về vấn đề của bạn, chúng tôi sẽ tư vấn cho bạn như sau:
1. Căn cứ pháp lý:
Bộ luật hình sự năm 2015
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2017
2. Nội dung tư vấn:
Về mặt nguyên tắc, bất kỳ ai cũng phải chịu trách nhiệm cho hành vi của chính mình. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hiện hành, một người chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội phạm khi họ đáp ứng các yếu tố cấu thành nên tội phạm đó theo quy định của Bộ luật hình sự.
Cụ thể theo quy định của Bộ luật hình sự 2015 thì chủ thể phạm tội (tức người phạm tội) phải có năng lực hành vi trách nhiệm hình sự. Năng lực trách nhiệm hình sự của cá nhân người phạm tội được hiểu là khả năng chịu trách nhiệm hình sự, mà thể hiện ở việc người phạm tội có đầy đủ năng lực nhận thức và khả năng làm chủ, điều khiển hành vi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội (tức hành vi phạm tội) và đáp ứng độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Trong đó, về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, tại Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2012, được sửa đổi bởi Khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2017 có quy định:
“Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”
Căn cứ theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015 được trích dẫn nêu trên, người từ đủ 16 tuổi trở lên sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi hành vi phạm tội do mình gây ra, trừ một số trường hợp mà pháp luật có quy định khác.
Tuy nhiên, điều đó cũng không loại trừ trách nhiệm hình sự của những người thực hiện hành vi phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi vì theo quy định nêu trên thì những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu hành vi phạm tội của họ đồng thời đáp ứng hai điều kiện:
Một là, tội danh mà người này phạm phải thuộc một trong các tội danh quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015, cụ thể gồm thuộc một trong các tội sau: Điều 123 (Tội giết người), Điều 134 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác), Điều 141 (Tội Hiếp dâm), Điều 142 (Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi), Điều 143 (Tội cưỡng dâm), Điều 144 (Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi), Điều 150 (Tội mua bán người), 151 (Tội mua bán người dưới 16 tuổi), Điều 168 (Tội cướp tài sản), Điều 169 (Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản), Điều 170 (Tội cưỡng đoạt tài sản), Điều 171 (Tội cướp giật tài sản), Điều 173 (Tội trộm cắp tài sản), Điều 178 (Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản), Điều 248 (Tội sản xuất trái phép chất ma túy), Điều 249 (Tội tàng trữ trái phép chất ma túy), Điều 250 (Tội vận chuyển trái phép chất ma túy), Điều 251 (Tội mua bán trái phép chất ma túy), Điều 252 (Tội chiếm đoạt chất ma túy), Điều 265 (Tội tổ chức đua xe trái phép), Điều 266 (Tội đua xe trái phép), Điều 286 (Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử), Điều 287 (Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử), Điều 289 (tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác), Điều 290 (Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản), Điều 299 (tội khủng bố), Điều 303 (Tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia) và Điều 304 (Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phéo hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự).
Hai là, tội danh mà những người dưới 16 tuổi phạm phải (nêu trên) phải là tội phạm được đánh giá ở mức độ “rất nghiêm trọng” hoặc “đặc biệt nghiêm trọng”.
Theo khoản 3 Điều 9 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bởi khoản 2 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật hình sự năm 2017 thì tội phạm rất nghiêm trọng được hiểu là tội phạm có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy được Bộ luật hình sự quy định là từ trên 7 năm tù đến 15 năm tù. Đối với tội đặc biệt nghiêm trọng, mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội danh này được Bộ luật hình sự quy định là từ trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Như vậy, người chưa thành niên dưới 16 tuổi vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu tội danh mà họ phạm phải được xác định là rất nghiêm trọng, hoặc đặc biệt nghiêm trọng và thuộc một trong những tội danh được quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi.
Trên đây là tư vấn của Luật Sao Việt đối với câu hỏi của bạn. Vui lòng liên hệ tư vấn và sử dụng dịch vụ của Công ty Luật TNHH Sao Việt tại:
Liên hệ sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật:
- CÔNG TY LUẬT TNHH SAO VIỆT -
"Sự bảo hộ hoàn hảo trong mọi quan hệ pháp luật"
TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT: 1900 6243
Địa chỉ tư vấn trực tiếp: Số 525B Lạc Long Quân, P. Xuân La, Q. Tây Hồ, Hà Nội
Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: congtyluatsaoviet@gmail.com