Anh chị tôi hiếm muộn đã hơn 10 năm, nay càng khó khăn hơn vì tình hình sức khoẻ của chị gái tôi không đủ khả năng tự mang thai nữa nên nay gia đình tôi thống nhất để tôi mang thai hộ anh chị. Tôi muốn hỏi về chế độ thai sản của người mang thai hộ và người nhờ mang thai hộ, liệu có như người bình thường không? Cả tôi và chị tôi đều đã đi làm công ty nhiều năm và 2 chị em tôi đều đóng bảo hiểm gần 10 năm nay. Tôi xin cảm ơn.

Đề xuất quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạoẢnh minh hoạ, nguồn: internet.

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Sao Việt. Đối với thắc mắc của bạn, chúng tôi tư vấn cho bạn như sau:

Theo quy định chung về điều kiện hưởng chế độ thai sản quy định tại Khoản 1 Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, thì lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ đều là đối tượng được hưởng chế độ thai sản khi đáp ứng đủ các điều kiện của pháp luật.

1. Chế độ thai sản của người lao động nữ mang thai hộ

a) Điều kiện hưởng chế độ thai sản:

Người phụ nữ được nhờ mang thai hộ phải đáp ứng điều kiện về thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tại Khoản 2 Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, cụ thể là phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con. Trường hợp khi đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 12 tháng trở lên mà phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 03 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con (Khoản 3 Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội 2014).

b) Chế độ thai sản của lao động nữ mang thai hộ

Khác với chế độ thai sản của người bình thường, chế độ thai sản của lao động nữ mang thai hộ chỉ được áp dụng cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho người mẹ nhờ mang thai hộ. Trường hợp lao động nữ mang thai hộ nuôi con đến hết 6 tháng thai sản thì được hưởng hết 6 tháng ( tối đa không quá 6 tháng kể từ khi sinh nếu sinh 1 con và từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 01 tháng).

Các chế độ mà lao động nữ mang thai hộ được hưởng theo quy định tại Điều 3 Nghị định 115/2015/NĐ-CP bao gồm:

- Chế độ khám thai:

Được nghỉ việc đi khám thai 5 lần, mỗi lần 1 ngày; trường hợp ở xa cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc thai không bình thường thì được nghỉ 2 ngày cho mỗi lần khám thai.

- Chế độ sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý: 

Được nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền. Thời gian nghỉ việc tối đa như sau:

+ 10 ngày nếu thai dưới 05 tuần tuổi;

+ 20 ngày nếu thai từ 05 tuần tuổi đến dưới 13 tuần tuổi;

+ 40 ngày nếu thai từ 13 tuần tuổi đến dưới 25 tuần tuổi,

+ 50 ngày nếu thai từ 25 tuần tuổi trở lên.

c) ​Chế độ khi sinh con:

- Trợ cấp một lần cho mỗi con bằng 02 lần mức lương cơ sở tại tháng lao động nữ mang thai hộ sinh con;​​

- Nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến ngày giao đứa trẻ cho người mẹ nhờ mang thai hộ nhưng không vượt quá Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ hoặc thời điểm đứa trẻ chết mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì lao động nữ mang thai hộ được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.​

d) Chế độ dưỡng sức sau sinh

Sau thời gian hưởng chế độ thai sản khi sinh con, trong 30 ngày đầu làm việc mà sức khỏe chưa hồi phục thì lao động nữ mang thai hộ được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe theo quy định tại Điều 41 của Luật Bảo hiểm xã hội 2014, trừ trường hợp lao động nữ mang thai hộ chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc trước thời điểm sinh con.

2. Chế độ của người mẹ nhờ mang thai hộ

Theo khoản 2 Điều 35 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, “người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng

chế độ thai sản từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi”.

Vì vậy, nếu nhận con ngay từ khi mới sinh thì người mẹ nhờ mang thai hộ sẽ được hưởng chế độ thai sản trong suốt 6 tháng đầu đời của con.

Cụ thể, theo hướng dẫn tại Điều 4 Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 của Chính phủ như sau:

“1. Người mẹ nhờ mang thai hộ đã đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vào quỹ ốm đau và thai sản từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng tính đến thời điểm nhận con thì được hưởng các chế độ sau:

a) Trợ cấp một lần cho mỗi con bằng 02 lần mức lương cơ sở tại tháng lao động nữ mang thai hộ sinh con trong trường hợp lao động nữ mang thai hộ không tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc hoặc không đủ điều kiện quy định tại Khoản 3 Điều 3 của Nghị định này;

Trường hợp lao động nữ mang thai hộ, người mẹ nhờ mang thai hộ không tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc hoặc không đủ điều kiện quy định tại Khoản 3 Điều 3 của Nghị định này thì người chồng đang đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vào quỹ ốm đau, thai sản của người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng trợ cấp một lần bằng 02 lần mức lương cơ sở tại tháng sinh cho mỗi con.

b) Được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. Trường hợp sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con, người mẹ nhờ mang thai hộ được nghỉ thêm 01 tháng;

Trường hợp người mẹ nhờ mang thai hộ không nghỉ việc thì ngoài tiền lương vẫn được hưởng chế độ thai sản theo quy định.

c) Trường hợp người mẹ nhờ mang thai hộ chết hoặc gặp rủi ro mà không còn đủ sức khỏe để chăm sóc con theo xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền khi con chưa đủ 06 tháng tuổi thì người chồng của người mẹ nhờ mang thai hộ hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản đối với thời gian còn lại của người mẹ nhờ mang thai hộ theo quy định tại Điểm b Khoản này;

d) Trường hợp người cha nhờ mang thai hộ hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng quy định tại Điểm c Khoản này đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mà không nghỉ việc thì ngoài tiền lương còn được hưởng chế độ thai sản đối với thời gian còn lại của người mẹ nhờ mang thai hộ theo quy định tại Điểm b Khoản này;

đ) Trường hợp sau khi sinh con, nếu con chưa đủ 06 tháng tuổi bị chết thì người mẹ nhờ mang thai hộ được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo quy định tại Khoản 3 Điều 34 của Luật Bảo hiểm xã hội.

2. Mức hưởng chế độ thai sản của người mẹ nhờ mang thai hộ được thực hiện theo quy định tại Điều 39 của Luật Bảo hiểm xã hội và được tính trên cơ sở mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của 06 tháng trước khi nghỉ việc hưởng chế độ thai sản của người mẹ nhờ mang thai hộ.

3. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng thì tháng đó được tính là thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội, thời gian này người mẹ nhờ mang thai hộ và người sử dụng lao động không phải đóng bảo hiểm xã hội.

Trường hợp người mẹ nhờ mang thai hộ chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc trước thời điểm nhận con thì thời gian hưởng chế độ thai sản không được tính là thời gian đóng bảo hiểm xã hội”.

 
Bình Luận

© 2018 SAOVIETLAW.COM Bản quyền thuộc về công ty Công Ty Luật TNHH Sao Việt

logo-footer