Tôi lấy chồng cách đây 20 năm, được bố mẹ chồng cho một mảnh đất gần 750m2. Năm 2015 chúng tôi làm sổ đỏ và xây nhà trên mảnh đất đó nhưng diện tích làm sổ chỉ 200m2 và đã đứng tên hai vợ chồng, phần đất còn lại vẫn là vườn và ao. Năm 2020, tôi chơi bài thua lỗ nên đã lén giấu chồng bán một phần mảnh đất, diện tích hơn 200m2 cho người khác với giá 400 triệu. Tôi ký thay chữ ký của chồng tôi ở hợp đồng mua bán, hợp đồng này cũng chỉ là hai bên viết tay chứ không công chứng gì. Nay họ đi làm sổ đỏ không được nên đòi kiện tôi, tôi chấp nhận trả lại 400 triệu nhưng họ không đồng ý, cứ đòi tách sổ và phải làm được thủ tục sang tên cho họ. Vậy luật sư cho hỏi nếu họ kiện ra tòa thì khả năng hủy hợp đồng mua bán có cao không? Tôi có buộc phải sang tên mảnh đất cho họ không? Vì chồng tôi không đồng ý bán.
Trả lời:
Thứ nhất, về khả năng bị tuyên hủy hợp đồng mua bán:
Về cơ bản, nếu mảnh đất được bố mẹ chồng cho chung 2 vợ chồng chị trong thời kỳ hôn nhân thì đây được xác định là tài sản chung vợ chồng. Theo quy khoản 2 Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì “Vợ, chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch và Bộ luật dân sự năm 2015 quy định khi giao dịch tài sản chung bắt buộc phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng…”
Vì thời điểm xảy ra việc mua bán mảnh đất là năm 2015 nên Luật áp dụng là Luật đất đai năm 2013. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 167 Luật đất đai 2013 về việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất được thực hiện như sau:
“a) Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này;
b) Hợp đồng cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất mà một bên hoặc các bên tham gia giao dịch là tổ chức hoạt động kinh doanh bất động sản được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của các bên;…”
Như vậy, theo quy định nêu trên, hợp đồng mua bán đất phải được công chứng hoặc chứng thực theo quy định pháp luật. Việc chị tự ý bán một phần mảnh đất cho người khác mà không có sự đồng ý của chồng chị, đồng thời hai bên cũng không công chứng hợp đồng này là vi phạm pháp luật.
Vì vậy, hợp đồng này “có thể” bị tuyên vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức và vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật.
Khi bị tuyên bố giao dịch vô hiệu, các bên sẽ phải hoàn trả lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận theo quy định tại Điều 131 BLDS 2015 về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu:
“ 1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.”
Thứ hai, khả năng chị có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự:
Nếu đối phương hoặc chồng chị tố cáo, chị có thể bị truy cứu về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015:
“Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
g) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả (không đúng sự thật) nhưng làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Ở đây là việc chị đã đưa ra thông tin giả khiến người mua tin chị có đủ quyền để thực hiện việc chuyển nhượng mảnh đất, đồng thời, chị giả chữ ký của chồng để thực hiện giao dịch, khiến người mua tin vào việc chuyển nhượng cho đến khi họ không thể làm được sổ đứng tên mình.
Với số tiền bị chiếm đoạt 400 triệu, chị có thể phải đối mặt với mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.
Liên hệ sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật:
- CÔNG TY LUẬT TNHH SAO VIỆT -
"Sự bảo hộ hoàn hảo trong mọi quan hệ pháp luật"
TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT: 1900 6243
Địa chỉ tư vấn trực tiếp: Số 525B Lạc Long Quân, P. Xuân La, Q. Tây Hồ, Hà Nội
Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: congtyluatsaoviet@gmail.com