Năm 2021, em có đệ đơn ly hôn chồng, lí do là chồng em ngoại tình, nhưng chỉ ly hôn mà chưa chia tài sản, do hai vợ chồng còn ràng buộc nhiều về cổ phần trong công ty. Năm 2022, chồng cũ đến với người mới nên em không muốn dây dưa về tài sản, do đó em gửi đơn yêu cầu phân chia tài sản chung vợ chồng bao gồm nhà đất và cổ phần công ty, tuy nhiên sau khi thỏa thuận, vì không muốn ảnh hưởng tình hình kinh doanh, chồng cũ chấp nhận sẽ đổi nhà đất lấy cổ phần của em trong công ty (đã lập văn bản) nên em rút đơn. Tuy nhiên đến nay sau 3 năm, vợ chồng em vẫn không thể đồng thuận trong việc phân chia tài sản, chồng vẫn chưa sang tên nhà đất cho em, bản thân em thì có dự định sang Canada định cư cùng con nên em muốn khởi kiện lại để chia tài sản chung. Vậy trường hợp này em có thể tiếp tục khởi kiện lần 2 không? 

Ảnh minh họa, nguồn: internet.

Trả lời:

Chào bạn! Cảm ơn bạn đã quan tâm và gửi câu hỏi về Công ty Luật TNHH Sao Việt, đối với thắc mắc của bạn, chúng tôi xin được giải đáp như sau:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thì:

“1. Sau khi thụ lý vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong các trường hợp sau đây:

c) Người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp họ đề nghị xét xử vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan;

…”

Do đó, nếu bạn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện thì Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, đồng thời xóa tên vụ án đó trong sổ thụ lý và trả lại đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự nếu có yêu cầu. 

Trường hợp trước đây đã rút đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn, Tòa án cũng đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án và hiện nay muốn tiếp tục xin giải quyết lần hai, khoản 1 Điều 218 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định như sau:

"Điều 218. Hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự

1. Khi có quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật này và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.”

Đối chiếu với quy định tại khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 như sau:"Điều 192. Trả lại đơn khởi kiện, hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện

3. Đương sự có quyền nộp đơn khởi kiện lại trong các trường hợp sau đây:

a) Người khởi kiện đã có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;

b) Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu mà theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại;

c) Đã có đủ điều kiện khởi kiện;"

Trường hợp của bạn, nếu xác định quan hệ tranh chấp là phân chia tài sản chung thì không thuộc bất kỳ trường hợp nào trong các trường hợp được pháp luật cho phép khởi kiện lại theo điểm b khoản 3 Điều 192 nêu trên. Tuy nhiên, đây có đúng là quan hệ tranh chấp phân chia tài sản chung hay không?

Theo quy định tại Điều 38 của Luật Hôn nhân và gia đình thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản và việc chia tài sản chung phải được lập thành văn bản. Theo khoản 2 Điều 38 Luật HNGĐ: “2. Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.” Như vậy, không nhất thiết mọi thỏa thuận phân chia tài sản chung đều phải được công chứng.

Thực tế, vợ chồng bạn đã có thỏa thuận phân chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân (bằng việc lập văn bản chồng bạn chấp nhận sẽ đổi nhà đất lấy cổ phần của bạn trong công ty).

Đồng thời, theo quy định tại điều 39 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng là thời điểm do vợ chồng thỏa thuận và được ghi trong văn bản; nếu trong văn bản không xác định thời điểm có hiệu lực thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản.

Vì vậy, khi văn bản phân chia tài sản đã có hiệu lực thì tức là việc phân chia tài sản đã hoàn thành, tranh chấp xảy ra sau này sẽ là tranh chấp kiện đòi tài sản.

Vậy nên khi khởi kiện, bạn có thể khởi kiện yêu cầu thực hiện việc sang tên tài sản theo thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng thay vì khởi kiện phân chia tài sản chung vợ chồng.

Tham khảo Dự thảo án lệ số 11/2023 - Tòa án nhân dân tối cao về vụ việc có tính chất tương tự.

Trên đây là tư vấn của Luật Sao Việt đối với câu hỏi của bạn. Nếu trong quá trình thực hiện các thủ tục nếu gặp phải các vấn đề cần được giải đáp, bạn vui lòng liên hệ:

Liên hệ sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật:

- CÔNG TY LUẬT TNHH SAO VIỆT -            
"Sự bảo hộ hoàn hảo trong mọi quan hệ pháp luật"         

TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT: 1900 6243

Địa chỉ tư vấn trực tiếp: Số 525B Lạc Long Quân, P. Xuân La, Q. Tây Hồ, Hà Nội

Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: congtyluatsaoviet@gmail.com

Bình Luận

© 2018 SAOVIETLAW.COM Bản quyền thuộc về công ty Công Ty Luật TNHH Sao Việt

logo-footer