Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về chia thừa kế, không ít trường hợp người thừa kế chỉ phát hiện quyền lợi của mình bị xâm phạm sau nhiều năm kể từ khi người để lại di sản qua đời. Đặc biệt, đối với những trường hợp thừa kế mở trước ngày Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực (tức trước ngày 1/1/2017), việc xác định thời hiệu khởi kiện chia thừa kế trở nên phức tạp hơn do sự chuyển tiếp giữa các quy định pháp luật. Điều này khiến nhiều người gặp vướng mắc. Vậy trong những trường hợp này, thời hiệu khởi kiện sẽ được xác định như thế nào? Liệu còn cơ hội để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hay không? Bài viết dưới đây của Luật Sao việt sẽ phân tích các căn cứ pháp lý và hướng dẫn bạn cách xác định thời hiệu khởi kiện chia thừa kế đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày BLDS 2015 có hiệu lực.
1. Thời điểm mở thừa kế là gì?
Đầu tiên, để có thể xác định chính xác thời hiệu khởi kiện để yêu cầu chia di sản, chúng ta cần xác định chính xác thời điểm mở thừa kế trước. Theo quy định của pháp luật về thừa kế, thời điểm mở thừa kế chính là thời điểm người để lại di sản chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết. Như vậy, thời điểm mở thừa kế chính là thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện. Thời điểm này có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với việc xác định thời hiệu khởi kiện, mà còn là cơ sở để xác định số di sản, những người được hưởng thừa kế và pháp luật áp dụng để giải quyết tranh chấp.
2. Xác định thời hiệu khởi kiện chia thừa kế đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày BLDS 2015 có hiệu lực
Căn cứ Điểm d Khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015 về điều khoản chuyển tiếp quy định, đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật này có hiệu lực (ngày 01/01/2017) thì việc áp dụng pháp luật được quy định như sau: “d) Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này”. Bên cạnh đó, căn cứ tại Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao quy định việc áp dụng pháp luật về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự; Và nội dung của Án lệ số 26/2018/AL của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao. Như vậy, kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp dụng quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định thời hiệu đối với trường hợp mở thừa kế trước ngày 01/01/2017. Tuy nhiên, “Không áp dụng Bộ luật này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với vụ việc mà Tòa án đã giải quyết theo quy định của pháp luật về dân sự trước ngày Bộ luật này có hiệu lực” (khoản 2 Điều 688 BLDS năm 2015). Đây cũng là nội dung hướng dẫn được đưa ra tại mục 1, 2 Phần III Giải đáp vướng mắc số 01/GĐ-TANDTC ngày 25/7/2016 của TAND Tối cao đối với trường hợp thời điểm mở thừa kế trước ngày BLDS năm 2015 bắt đầu có hiệu lực thi hành.
Ngoài ra, có thể tham khảo nội dung hướng dẫn tại Phần I Giải đáp vướng mắc số 01/GĐ-TANDTC ngày 05/01/2018 của TAND Tối cao về cách xác định thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản đối với trường hợp người để lại di sản thừa kế chết trước năm 1987 mà hiện nay Tòa án mới thụ lý, như sau:
“Kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 4 Điều 4 Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính thì từ ngày 01/01/2017, Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 về thời hiệu thừa kế để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự "Tranh chấp về thừa kế tài sản”. Theo đó, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế.
Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10/9/1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10/9/1990.
Khi xác định thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 01/7/1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 01/01/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp thừa kế không có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia; thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 01/9/2006 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp thừa kế có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia”.
3. Lưu ý khi xác định thời hiệu khởi kiện về thừa kế
- Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện
Theo quy định tại Điều 156 Bộ luật dân sự năm 2015, khi xác định thời hiệu khởi kiện sẽ có những khoảng thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự (trong đó có vụ án khởi kiện chia thừa kế), bao gồm:
“1. Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho chủ thể có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu không thể khởi kiện, yêu cầu trong phạm vi thời hiệu.
2. Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện, người có quyền yêu cầu là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chưa có người đại diện khác thay thế trong trường hợp sau đây: a) Người đại diện chết nếu là cá nhân, chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân; b) Người đại diện vì lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được.”
- Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án
Pháp luật dân sự cho phép trong một số trường hợp, tuy không còn thời hiệu khởi kiện nhưng được bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện đối với vụ án dân sự. Cụ thể, tại Điều 157 Bộ luật dân sự năm 2015, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại trong trường hợp sau đây:
“a) Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện; b) Bên có nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện; c) Các bên đã tự hòa giải với nhau.”
Theo đó, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự sẽ bắt đầu lại kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra những sự kiện nêu trên.
4. Việc áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện
Căn cứ Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Khoản 2 Điều 149 Bộ luật dân sự năm 2015, Tòa án sẽ chỉ áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án. Trong trường hợp thời hiệu khởi kiện không còn nhưng không có đương sự nào yêu cầu áp dụng thời hiệu hoặc đưa ra yêu cầu không phù hợp quy định của pháp luật thì Tòa án vẫn sẽ tiếp tục giải quyết vụ án.
Nếu bạn còn bất kỳ vướng mắc nào liên quan đến vấn đề pháp lý này, hãy liên hệ với Luật sư và Chuyên viên pháp lý của chúng tôi để được tư vấn cụ thể và cung cấp dịch vụ pháp lý.
- CÔNG TY LUẬT TNHH SAO VIỆT -
"Sự bảo hộ hoàn hảo trong mọi quan hệ pháp luật"
TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT: 1900 6243
Địa chỉ tư vấn trực tiếp: Số 525B Lạc Long Quân, P. Xuân La, Q. Tây Hồ, Tp. Hà Nội
Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: congtyluatsaoviet@gmail.com