Gia đình là tế bào của xã hội và cũng chính là cửa sổ nhỏ phản ánh thực trạng mà xã hội đang diễn ra. Chính vì vậy, bạo lực gia đình cũng chính là bạo lực xã hội và là một trong những tệ nạn cần phải được loại bỏ. Hiện nay, pháp luật cũng đã có những quy định nghiêm khắc để xử lý, hạn chế tình trạng bạo lực gia đình, từ Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 đến Luật Trẻ em 2016, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và cả Bộ luật hình sự năm 2015. Vậy những quy định cụ thể của pháp luật về vấn đề này như thế nào? Hãy cùng Luật Sao Việt tìm hiểu về vấn đề này trong bài viết dưới đây!

1. Bạo lực gia đình là gì?

Bạo lực gia đình là “hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình” (Điều 1 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007).

Tùy thuộc vào hình thức, đối tượng, hành vi mà chúng ta có thể chia bạo lực gia đình thành các loại khác nhau. Về hình thức, bạo lực gia đình có thể được nhận diện dưới các hình thức bạo lực phổ biến như: bạo lực thể chất (đánh đập, hành hung…), bạo lực tinh thần (chửi bới, xúc phạm,...), bạo lực kinh tế (thâu tóm tài chính, ngăn cấm đi làm,...); bạo lực tình dục (cưỡng ép quan hệ tình dục, cưỡng ép sinh con,...). Về đối tượng của bạo lực gia đình, thông thường sẽ là bạo lực giữa vợ - chồng, bạo lực giữa cha mẹ - con cái, bạo lực giữa các thành viên khác trong gia đình. Ở khía cạnh hành vi, bạo lực gia đình được thể hiện dưới nhiều hành vi khác nhau. Theo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định các hành vi bạo lực bao gồm:

 - Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng;

- Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;

- Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;

- Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;

- Cưỡng ép quan hệ tình dục;

- Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;

- Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình;

- Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính;

- Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet

2. Pháp luật quy định như thế nào về xử lý bạo lực gia đình?

Bạo lực gia đình cho dù tồn tại dưới dạng thức nào cũng là hành vi vi phạm pháp luật. Theo Điều 42 Luật Phòng chống bạo lực gia đình quy định về xử lý người có hành vi vi  phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình thì:

“1. Người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

2. Cán bộ, công chức, viên chức, người thuộc lực lượng vũ trang nhân dân có hành vi bạo lực gia đình nếu bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định của khoản 1 Điều này thì bị thông báo cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý người đó để giáo dục.

....”.

* Xử lý vi phạm hành chính: 

Theo quy định tại Điều 49 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP thì người có hành vi bạo lực gia đình bị phạt vi phạm hành chính như sau:

- Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên gia đình

- Phạt tiền từ 1.500.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

+ Sử dụng các công cụ, phương tiện hoặc các vật dụng khác gây thương tích cho thành viên gia đình;

+ Không kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu điều trị trong trường hợp nạn nhân cần được cấp cứu kịp thời hoặc không chăm sóc nạn nhân trong thời gian nạn nhân điều trị chấn thương do hành vi bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối.

+ Đối xử tồi tệ như: Bắt nhịn ăn, nhịn uống, bắt chịu rét, mặc rách, không cho hoặc hạn chế vệ sinh cá nhân;

+ Bỏ mặc không chăm sóc thành viên gia đình là người già, yếu, tàn tật, phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con nhỏ.

- Phạt tiền từ 500000 đồng đến 1 triệu đồng đối với hành vi lăng mạ, chì chiết, xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình.

- Phạt tiền từ 01 - 1,5 triệu đồng đối với hành vi tiết lộ hoặc phát tán tư liệu, tài liệu thuộc bí mật đời tư của thành viên gia đình nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm; Sử dụng các phương tiện thông tin nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình; Phổ biến, phát tán tờ rơi, bài viết, hình ảnh, âm thanh nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nạn nhân.

- Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100 - 300 nghìn đồng đối với hành vi cấm thành viên gia đình ra khỏi nhà, ngăn cản thành viên gia đình gặp gỡ người thân, bạn bè… nhằm cô lập, gây áp lực thường xuyên về tâm lý; Không cho thành viên gia đình thực hiện quyền làm việc; Không cho thành viên gia đình tham gia các hoạt động xã hội hợp pháp, lành mạnh.

- Phạt tiền từ 300.000 - 500.000 đồng nếu buộc thành viên gia đình phải chứng kiến cảnh bạo lực đối với người, con vật.

- Phạt tiền từ 500.000 - 01 triệu đồng đối với hành vi cưỡng ép thành viên gia đình thực hiện các hành động khiêu dâm, sử dụng các loại thuốc kích dục; Có hành vi kích động tình dục hoặc lạm dụng thân thể đối với thành viên gia đình không phải là vợ, chồng.

- Phạt tiền từ 300.000 - 500.000 đồng đối với hành vi không cho thành viên gia đình sử dụng tài sản chung vào mục đích chính đáng.

- Phạt tiền từ 500000 đồng đến 1 triệu đồng đối với hành vi chiếm đoạt tài sản riêng của thành viên gia đình; Ép thành viên gia đình lao động quá sức, làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại…, hoặc Ép thành viên gia đình đi ăn xin, lang thang kiếm sống.

- Phạt tiền từ 100.000 - 300.000 đồng đối với hành vi buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở hợp pháp.

- Phạt tiền từ 300.000 - 500.000 đồng đối với hành vi thường xuyên đe dọa bằng bạo lực để đuổi thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở hợp pháp.

- Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong những hành vi: Cố tình tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình trong thời gian thi hành quyết định cấm tiếp xúc; Sử dụng điện thoại, phương tiện thông tin khác để đe dọa, chửi bới, xúc phạm nạn nhân bạo lực gia đình.

Biện pháp khắc phục hậu quả: 

- Buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu.

- Buộc thu hồi tư liệu, tài liệu, tờ rơi, bài viết, hình ảnh, âm thanh đối với hành vi tiết lộ hoặc phát tán tư liệu, tài liệu thuộc bí mật đời tư của thành viên gia đình nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm; Phổ biến, phát tán tờ rơi, bài viết, hình ảnh, âm thanh nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nạn nhân

* Xử lý hình sự:

Theo hướng dẫn tại điểm 7 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn áp dụng Chương XV "Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình" của Bộ luật hình sự do Bộ Tư pháp - Bộ Công an - Tòa án nhân dân tối cao - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ban hành, thì hành vi ngược đãi, hành hạ thông thường được hiểu là việc đối xử tồi tệ về ăn, mặc, ở và về các mặt sinh hoạt hàng ngày khác đối với người thân như: nhiếc móc, bắt nhịn ăn, nhịn uống, bắt chịu rét, mặc rách một cách không bình thường hoặc có hành vi bạo lực xâm phạm thân thể người bị hại như: đánh đập, giam hãm,... làm cho người bị hại bị đau đớn về thể xác và tinh thần.

Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình cũng được quy định tại Điều 185 Bộ luật hình sự 2015 như sau:

1. Người nào đối xử tồi tệ hoặc có hành vi bạo lực xâm phạm thân thể ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Thường xuyên làm cho nạn nhân bị đau đớn về thể xác, tinh thần;

b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:

a) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;

b) Đối với người khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng hoặc người mắc bệnh hiểm nghèo.”

Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội danh này ít khi xảy ra. Có 3 nguyên nhân dẫn đến thực tế này. Thứ nhất, những hành vi bạo lực gia đình này thường diễn ra trong phạm vi nội bộ gia đình, hiếm khi người ngoài có thể thấy được để có thể tố cáo. Thứ hai, nạn nhân chịu bạo lực gia đình thường có tâm lý sợ hãi, phụ thuộc vào người bạo lực, hoặc vì suy nghĩ cam chịu, chịu đựng vì con cái, hoặc sợ xã hội dị nghị nên không dám lên tiếng tố cáo. Thứ ba, những vụ việc truy cứu TNHS về hành vi bạo lực gia đình chỉ thuộc về trường hợp những hậu quả hữu hình (về thể chất) đối với nạn nhân đã thể hiện rõ ràng. Nghĩa là cơ quan chức năng chứng minh được hậu quả thương tích hay tổn hại sức khỏe, tính mạng của nạn nhân là nghiêm trọng, hoặc nạn nhân uất ức mà tự sát. Trong khi đó, bạo lực tinh thần là dạng bạo lực “không dấu vết”, mặc dù nó gây ra tổn thương tâm lý rất lớn cho nạn nhân nhưng lại khó chứng minh, khó “định lượng” để xử lý theo quy định của luật. Vì vậy, bạo lực tinh thần hiện nay về mặt pháp luật hầu như không bị xử lý hình sự.

Đối với những vụ việc bạo lực gia đình gây ra hậu quả hữu hình, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng mà người thực hiện hành vi bạo lực có thể bị truy cứu trách nhiệm ở những tội danh khác nhau. Người thực hiện hành vi bạo lực nếu gây nên thương tích cho nạn nhân từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp luật định, thì có thể bị truy cứu TNHS về tội cố ý gây thương tích theo Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 với hình phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Trong trường hợp bạo lực gia đình xảy ra dẫn đến hậu quả chết người (lỗi cố ý), thì người thực hiện hành vi sẽ bị truy cứu về tội giết người theo quy định tại Điều 123 BLHS 2015 hoặc nếu làm cho nạn nhân bị uất ức mà tự sát, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội bức tử theo Điều 130 BLHS.

3. Giải pháp nào để phòng, chống bạo lực gia đình

* Đối với cơ quan quản lý Nhà nước và các tổ chức xã hội

Thứ nhất, cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình để nâng cao nhận thức của người dân. Việc phổ biến không chỉ nhằm ngăn chặn những người có hành vi bạo lực gia đình mà còn để những nạn nhân của bạo lực hiểu và dũng cảm đứng lên bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.

Thứ hai, cần tăng cường việc rà soát, hỗ trợ kịp thời cho những nạn nhân của bạo lực gia đình thông qua nhiều hình thức và các kênh phương tiện khác nhau. Các kênh tiếp nhận và hỗ trợ nạn nhân của bạo lực gia đình hiện nay thường qua hình thức trực tiếp (nạn nhân cầu cứu chính quyền địa phương, hoặc do người thân/hàng xóm của nạn nhân tố cáo đến các cơ quan có thẩm quyền,...) trong khi đó có nhiều trường hợp bị bạo lực nhưng nạn nhân không thể tiếp cận trực tiếp với các đơn vị giúp đỡ, vì vậy, cần thiết lập những kênh hỗ trợ online (mạng xã hội, đường dây nóng,...) và phổ biến đến tất cả người dân.

Thứ ba, chú trọng đến việc điều trị tâm lý cho nạn nhân và người nhà nạn nhân bị bạo lực gia đình. Hiện nay, các hoạt động can thiệp, cứu trợ nạn nhân của bạo lực gia đình thường tập trung vào việc giúp đỡ nạn nhân thoát khỏi hoàn cảnh bị bạo lực, đưa nạn nhân đi cấp cứu, điều trị những tổn thương thể chất trên cơ thể và có rất ít hoạt động điều trị tổn thương tâm lý, trong khi đó mới là những vết thương khó lành nhất. Ngoài ra, có nhiều nghiên cứu cho thấy bạo lực gia đình ảnh hưởng 91% đến sự phát triển nhân cách của trẻ; gây tổn hại về sức khỏe, thể chất 87,5% và gây tổn thương về tâm lý, tinh thần chiếm 89,4%. Đây sẽ là những nguy cơ khôn lường cho đứa trẻ và cho cả xã hội sau này nếu chúng không được can thiệp điều trị tâm lý ngay từ nhỏ.

Thứ tư, cần thực sự mạnh tay trong việc ngăn chặn, xử lý hành vi bạo lực gia đình. Trước hết là sự vào cuộc của các tổ chức, chính quyền cơ sở bởi đây là đơn vị gần gũi, dễ dàng tiếp cận nhất đối với những trường hợp bạo hành gia đình trong khu vực mà mình quản lý.

* Đối với nạn nhân của bạo lực gia đình:

- Hãy mạnh mẽ đứng tên tố cáo hành vi bạo lực cho dù là bất kỳ dạng bạo lực nào

- Tìm kiếm sự giúp đỡ từ bất kỳ người nào xung quanh

- Gọi ngay đến Công an địa phương khi có bạo lực nghiêm trọng xảy ra

- Dự phòng một tài khoản bí mật cho riêng mình để phục vụ những mục đích cần thiết sau này

- Ghi nhận lại những bằng chứng của việc bị bạo hành để làm căn cứ khởi kiện 

- Nhờ đến sự giúp đỡ của Luật sư để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.

- Hãy gặp bác sỹ và chuyên gia tâm lý để điều trị vấn đề mà mình đã và đang gặp phải

Liên hệ sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật:

- CÔNG TY LUẬT TNHH SAO VIỆT -            
"Sự bảo hộ hoàn hảo trong mọi quan hệ pháp luật"         

TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT: 1900 6243

Địa chỉ tư vấn trực tiếp: Số 525B Lạc Long Quân, P. Xuân La, Q. Tây Hồ, Hà Nội

Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: congtyluatsaoviet@gmail.com

 

Bình Luận

© 2018 SAOVIETLAW.COM Bản quyền thuộc về công ty Công Ty Luật TNHH Sao Việt

logo-footer