Em tốt nghiệp cao đẳng y, bố em có một người bạn tên Q làm trong bệnh viện của tỉnh. Ông Q có nói với bố em là đã chạy cho hơn chục người vào biên chế được rồi và có thể chạy được cho em vào biên chế của bệnh viện. Ông Q nói sẽ để em làm việc với hình thức hợp đồng (6 tháng trước), sau đó hết hợp đồng sẽ lo cho em vào biên chế. Số tiền bố em phải chuẩn bị là 500 triệu đồng và chuyển bằng tiền mặt cho ông Q làm 2 lần :  lần 1 là 200 triệu đồng khi em vào làm hợp đồng, lần 2 là sau khi em làm hết hợp đồng  thì ông Q yêu cầu bố em chuyển 300 triệu đồng để lo cho em vào biên chế. Hiện nay em đã nghỉ làm việc theo hợp đồng được 13 tháng, chờ đợi và thúc giục ông Q thì ông ấy lấy lý do là Sở đang chủ trương tinh giảm biên chế nên rất khó khăn phải chờ thêm và gần đây liên lạc với ông Q rất khó, ông ấy hay lấy lý do để tránh mặt. Gia đình em không muốn chờ đợi nữa, và sợ chờ thì tiền mất mà công việc không lo được.
Vậy Công ty Luật TNHH Sao Việt cho hỏi nhà em phải làm gì để đòi lại tiền từ ông Q? Ông Q và bố em có phạm tội gì không ạ?
 
 
  
Hình ảnh mang tính minh họa (Nguồn: internet)
 
 
Trả lời:
 
Chào bạn!
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi.Luật Sao Việt xin có quan điểm tư vấn như sau:
Đối với hành vi đưa và nhận tiền giữa bố bạn và ông Q:
Bạn chỉ cung cấp thông tin rằng ông Q là một người làm trong bệnh viện của tỉnh. Theo đó, chưa đủ thông tin để biết rằng ông Q có phải là người được Nhà nước giao cho phụ trách việc tuyển dụng của bệnh viện hay không (trên thực tế, việc tuyển dụng vào bệnh viện là do Giám đốc bệnh viện đó phụ trách). Do vậy, ở đây tôi tạm phân làm hai trường hợp chính (trong mỗi trường hợp lại phân ra những khả năng nhỏ khác) như sau:
 

Thứ nhất: Ông Q được Nhà nước giao cho phụ trách việc tuyển dụng của bệnh viện - tức là ông Q có trách nhiệm trong việc giải quyết yêu cầu của bố bạn. Khi đó, việc nhận tiền để giải quyết yêu cầu “chạy” việc của ông Q là hành vi “Nhận hối lộ”  theo quy định tại Điều 279 Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 (BLHS).

Thứ hai: Ông Q không được Nhà nước giao cho phụ trách việc tuyển dụng của bệnh viện. Trường hợp này, ông Q không phạm tội "nhận hối lộ” mà hành vi nhận tiền của ông Q để “chạy” việc cho bạn có thể phạm phải một trong các tội sau:

"Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”  theo quy định tại Điều 139 BLHS (nếu ông Q không chạy việc cho bạn mà chỉ đưa ra thông tin gian dối về khả năng chạy việc để nhằm làm gia đình bạn tin tưởng đưa tiền cho ông ta, từ đó chiếm đoạt số tiền nhận được) thì trường hợp này gia đình bạn là người bị hại.

Hoặc,“Môi giới hối lộ”  theo quy định tại Điều 290 BLHS (nếu ông Q có vai trò là “cầu nối” để giới thiệu, kết nối giữa gia đình bạn và người có trách nhiệm giải quyết nhu cầu xin việc của gia đình bạn).

Hoặc,“Đưa hối lộ” (nếu Q dùng tiền của gia đình bạn để đưa cho người có trách nhiệm giải quyết việc tuyển dụng tại bệnh viện).

Trong các trường hợp kể trên thì bố bạn chỉ phạm tội nếu khi đưa tiền cho ông Q, bố bạn biết rõ số tiền đó là tiền để đưa cho người được Nhà nước giao phụ trách việc tuyển dụng vào bệnh viện, khi đó bố bạn sẽ phạm vào tội “Đưa hối lộ” theo Điều 289 BLHS. Còn nếu khi đưa tiền, bố bạn không biết việc đó (chỉ biết chung chung là đưa tiền cho ông Q để xin việc) thì bố bạn sẽ không phạm tội.    

Đối với số tiền mà gia đình bạn đã đưa cho ông Q:

Trường hợp bố bạn phạm tội đưa hối lộ thì số tiền 500 triệu chính là phương tiện phạm tội và sẽ bị tịch thu, xung công quỹ Nhà nước theo điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự 2003.

Trường hợp bố bạn không phạm tội đưa hối lộ mà Q phạm tội (một trong các tội được tôi nêu ở phần trên) thì số tiền trên sẽ được cơ quan chức năng giao trả lại cho gia đình bạn theo điểm b khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự 2003.

Trường hợp không có hành vi phạm tội (của cả ông Q và bố bạn) thì việc giao nhận tiền để “chạy”  việc cũng là trái pháp luật, cho nên gia đình bạn vẫn có quyền khởi kiện ra tòa án đề nghị tuyên giao dịch giữa hai bên là vô hiệu (theo Điều 123 Bộ luật dân sự 2015) và đề nghị ông Q phải hoàn trả lại toàn bộ số tiền đã nhận.

Để nhận được ý kiến tư vấn chính xác và cụ thể hơn, quý khách  vui lòng liên hệ với các Luật sư, Chuyên viên Pháp lý của Công ty Luật TNHH Sao Việt qua: 

Tổng đài tư vấn pháp luật 1900 6243 hoặc 0243 636 7896

E-mail: saovietlaw@vnn.vn        

Bình Luận

© 2018 SAOVIETLAW.COM Bản quyền thuộc về công ty Công Ty Luật TNHH Sao Việt

logo-footer