Xin chào Luật Sao Việt, vào tháng 02/2023, con của tôi có tới cư xá Thanh Đa đòi nợ 25.000.000 VNĐ của bà X. Cháu có rủ vài người bạn đi cùng để gây áp lực, khi tới nơi cháu bố trí các người bạn của cháu đứng ở ngoài sảnh tạo thanh thế, gọi bà X xuống yêu cầu trả nợ, bà X nói bà hiện nay không có tiền và xin khất nợ. Do bà X khất nợ nhiều lần, cháu không kiềm chế được và đã ép bà X vào tường, nắm tóc và đe dọa rồi lấy của bà 01 dây chuyền bạc cùng 1 điện thoại iphone X để cấn trừ nợ. Sau khi con tôi về, bà X lên công an phường trình báo sự việc, ngày hôm sau con tôi bị công an quận triệu tập và tạm giữ. Hiện nay, tôi đã mang tài sản trả lại toàn bộ cho bà X và bà X cũng đã đồng ý viết đơn không truy cứu nữa. Công ty cho tôi hỏi con tôi có phải đi tù nữa hay không? Nhờ Quý Công ty trả lời giúp tôi. Tôi xin cám ơn.

Trả lời:

Chào anh/chị. Cảm ơn anh/chị đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Sao Việt. Đối với thắc mắc của anh/chị, chúng tôi tư vấn như sau:

Thứ nhất, con anh/chị đã có hành vi sử dụng vũ lực (ép vào tường, nắm tóc bà X) để yêu cầu bà X trả nợ, khi bà X nói không thể trả nợ, con anh/chị chiếm đoạt tài sản của bà X (dây chuyền và điện thoại) trái pháp luật. Hành vi này của con anh chị đã có dấu hiệu của tội “cướp tài sản” theo Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

“Điều 168. Tội cướp tài sản

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;

d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

h) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên;

c) Làm chết người;

d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

6. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Theo quan điểm của chúng tôi, giá trị tài sản con trai anh/chị chiếm đoạt dưới 50 triệu đồng (dựa theo giá thị trường vào thời điểm hiện tại), tuy nhiên, trường hợp của con trai bạn là phạm tội có tổ chức. Trước khi thực hiện hành vi phạm tội, con trai anh/chị và nhóm bạn đã cùng bàn bạc, phân công vai trò, vạch ra kế hoạch để cùng thực hiện đòi nợ và các đối tượng khác cũng thống nhất nghe theo sự điều khiển của con trai anh/chị. Vì vậy, có khả năng con anh/chị sẽ bị truy cứu theo khoản 2 nêu trên. 

Ngoài ra, việc anh/chị đã thay con trả lại toàn bộ tài sản bị chiếm đoạt cho bà X không có ý nghĩa gì trong việc xác định tội của cơ quan tư pháp, bởi hành vi cướp tài sản của con anh/chị đã cấu thành đầy đủ và hoàn thành. Đây chỉ có thể được xem là tình tiết giảm nhẹ theo điểm b (Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả) và điểm h (Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn) theo quy định khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Việc bà X đồng ý viết đơn không truy cứu nữa cũng không giúp con trai anh/chị được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự bởi tội cướp tài sản không phải là tội khởi tố theo yêu cầu của bị hại. Việc bà X xin không truy cứu TNHS con trai anh/chị chỉ được xem là căn cứ giảm nhẹ TNHS. 

Trên đây là tư vấn của Luật Sao Việt đối với câu hỏi của anh/chị. Trân trọng mến chào./

Liên hệ sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật:

- CÔNG TY LUẬT TNHH SAO VIỆT -            
"Sự bảo hộ hoàn hảo trong mọi quan hệ pháp luật"         

TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT: 1900 6243

Địa chỉ tư vấn trực tiếp: Số 525B Lạc Long Quân, P. Xuân La, Q. Tây Hồ, Hà Nội

Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: congtyluatsaoviet@gmail.com

Bình Luận

© 2018 SAOVIETLAW.COM Bản quyền thuộc về công ty Công Ty Luật TNHH Sao Việt

logo-footer