Tôi đang có vụ án dân sự tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng Quyền sử dụng đất với một cá nhân. Ngày 12/1/2024 Tòa án ra thông báo sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện trong đó có yêu cầu xác nhận về nơi cư trú của bị đơn trong khi trên Hợp đồng chuyển nhượng đất đã được công chứng đã và trong đơn khởi kiện tôi đã cung cấp địa chỉ thường trú của bị đơn rồi. Vậy cho tôi hỏi trong trường hợp này có bắt buộc nguyên đơn phải đi xác nhận nơi cư trú của bị đơn không?

Trả lời:

Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến Công ty Luật TNHH Sao Việt, chúng tôi trả lời bạn như sau:

Căn cứ hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao tại Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP:

1, Trường hợp trong đơn khởi kiện người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo hướng dẫn tại Điều 5 Nghị quyết này thì Tòa án phải nhận đơn khởi kiện và xem xét thụ lý theo thủ tục chung. Đối chiếu theo quy định tại Điều 5 Nghị quyết nêu trên thì người khởi kiện được coi là cung cấp địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho Tòa án theo đúng quy định của pháp luật khi đáp ứng một trong hai điều kiện là:

+ Phải được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, xác nhận (Ví dụ: Xác nhận thông tin địa chỉ nơi cư trú do Công an cấp xã cấp hoặc xác nhận)

+ Hoặc là có căn cứ khác chứng minh rằng đó là địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Ví dụ: Người khởi kiện nộp Biên nhận vay tiền nợ có ghi thông tin địa chỉ nơi cư trú của bị đơn).

2. Trường hợp sau khi thụ lý vụ án, Tòa án không tống đạt được thông báo về việc thụ lý vụ án do bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không còn cư trú, làm việc hoặc không có trụ sở tại địa chỉ mà nguyên đơn cung cấp thì Tòa án giải quyết như sau:

         a) Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo địa chỉ được ghi trong giao dịch, hợp đồng bằng văn bản thì được coi là “đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở”. Trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thay đổi nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng mà không thông báo cho người khởi kiện biết về nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở mới theo quy định tại khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự năm 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không đình chỉ việc giải quyết vụ án vì lý do không tổng đạt được cho bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

c) Trường hợp không thuộc điểm a, b khoản 2 Điều này mà Tòa án đã yêu cầu nguyên đơn cung cấp địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng nguyên đơn không cung cấp được thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa án không xác định được địa chỉ mới của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trừ trường hợp hưỡng dẫn tại khoản 3 Điều này


         Trường hợp sau khi thụ lý vụ án mà phát sinh người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án yêu cầu nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập cung cấp địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đó. Nếu nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập không cung cấp được địa chỉ thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập, xác minh địa chỉ theo quy định của pháp luật. Trường hợp Tòa án không xác định được địa chỉ thì đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có liên quan đến người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đó theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trừ trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này.

Như vậy,căn cứ các quy định trên thì Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP đã giải quyết cơ bản về nơi cư trú của bị đơn, theo đó, trong trường hợp của bạn là tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bạn là nguyên đơn đã cung cấp đầy đủ thông tin địa chỉ thường trú theo đúng thông tin đã ghi nhận rõ Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ đã công chứng thì được coi là đã cung cấp đầy đủ thông tin nơi cư trú của bị đơn. Theo đó, trường hợp của bạn không bắt buộc phải đi xin xác nhận lại nơi cư trú và Tòa án vẫn phải nhận đơn khởi kiện và xem xét thụ lý theo thủ tục chung theo quy định tại Bộ Luật Tố tụng dân sự.

Trên đây là tư vấn của Luật Sao Việt đối với câu hỏi của bạn. Nếu trong quá trình thực hiện các thủ tục nếu gặp phải các vấn đề cần được giải đáp, bạn vui lòng liên hệ:

Liên hệ sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật:

- CÔNG TY LUẬT TNHH SAO VIỆT -           

"Sự bảo hộ hoàn hảo trong mọi quan hệ pháp luật"         

TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT: 1900 6243

Địa chỉ tư vấn trực tiếp: Số 525B Lạc Long Quân, P. Xuân La, Q. Tây Hồ, Hà Nội

Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: congtyluatsaoviet@gmail.com

 

 

Bình Luận

© 2018 SAOVIETLAW.COM Bản quyền thuộc về công ty Công Ty Luật TNHH Sao Việt

logo-footer