Tầm khoảng những năm 80, bố mẹ tôi có khai hoang mảnh đất ven sông để trồng trọt, sau đó dựng nhà để ở. Năm 1990, bố mẹ tôi vượt biên sang nước ngoài sinh sống và để lại ngôi nhà cùng mảnh đất cho người em họ sử dụng, có thỏa thuận miệng là cho mượn ở nhờ. Năm ngoái, mẹ tôi trở về Việt Nam và muốn lấy lại mảnh đất đã cho ở nhờ nhưng được biết gia đình người em đã tự xin được sổ đỏ cho mình và cho con cái họ mảnh đất đó. Hiện nay con cái của họ cũng phủ nhận việc trước đây bố mẹ tôi cho họ mượn nhà ở nhờ. Vậy tôi muốn hỏi trường hợp này bố mẹ tôi có khả năng đòi lại đất không? Xin cảm ơn 

Trả lời:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Sao Việt. Đối với trường hợp của bạn, chúng tôi tư vấn cho bạn như sau:

Trước hết, cần phải xác nhận gia đình bạn trước đây đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở gắn liền với đất hay chưa? 

Như thông tin bạn cung cấp thì đất nhà bạn trước đây là do bố mẹ bạn khai hoang ở ven sông, có dựng nhà để ở. Thông thường, những trường hợp khai hoang vào những năm 80 thì các gia đình hầu hết đều chưa có sổ đỏ và cũng không có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất.

Nếu gia đình bạn thuộc trường hợp có giấy tờ do cơ quan nhà nước trước đây cấp thì đó có thể coi là căn cứ, chứng cứ chứng minh quyền sử dụng đất và sẽ có lợi phần nào khi tranh chấp đòi lại đất.

Thứ hai, cần xác định việc cho ở nhà giữa 2 bên thông qua thỏa thuận miệng có ai chứng kiến không? Có chứng cứ nào khác chứng minh việc cho mượn nhà, đất ở nhờ không?
Nếu không có thì không thể chứng minh đất này thuộc quyền sử dụng của bố mẹ bạn và đã cho người khác ở nhờ.

Thứ ba, về việc cấp sổ đỏ của gia đình người em: Căn cứ Điều 101 Luật đất đai năm 2013 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) quy định về việc Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất thì:

“1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này, có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.”

Trong trường hợp này, dù gia đình người em không có các giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại Điều 100 Luật đất đai năm 2013, nhưng đất này đã được sử dụng ổn định từ năm 1990,  không có tranh chấp trong khoảng thời gian từ đó đến nay thì hoàn toàn có khả năng được xem xét, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 101 Luật đất đai năm 2013 nêu trên.

Đồng thời,  theo quy định tại Điều 247 Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 236 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu.”

Từ thời điểm năm 1990 đến nay đã qua 30 năm nên gia đình người em có đủ căn cứ để trở thành chủ sở hữu của mảnh đất và căn nhà. Thực tế là họ cũng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đồng thời còn tặng cho con cái của mình mảnh đất đó.

Trong khi đó, gia đình bạn “có thể” không có tài liệu chứng minh nguồn gốc đất của mình, không có tài liệu chứng minh quan hệ cho mượn nhà đất; ngay cả khi có tài liệu chứng minh thì khả năng đòi được nhà đất cũng không cao.

Trên đây là tư vấn của Luật Sao Việt đối với câu hỏi của bạn. Nếu trong quá trình thực hiện các thủ tục nếu gặp phải các vấn đề cần được giải đáp, bạn vui lòng liên hệ:

Liên hệ sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật:

- CÔNG TY LUẬT TNHH SAO VIỆT -            
"Sự bảo hộ hoàn hảo trong mọi quan hệ pháp luật"         

TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT: 1900 6243

Địa chỉ tư vấn trực tiếp: Số 525B Lạc Long Quân, P. Xuân La, Q. Tây Hồ, Hà Nội

Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: congtyluatsaoviet@gmail.com

 

 
Bình Luận

© 2018 SAOVIETLAW.COM Bản quyền thuộc về công ty Công Ty Luật TNHH Sao Việt

logo-footer