Tháng 1/2019, chồng tôi ký hợp đồng thế chấp tài sản là căn nhà của hai vợ chồng với Ngân hàng để lấy vốn làm ăn. Đến đầu năm 2021, chồng tôi bị covid biến chứng nặng, công việc làm ăn cũng bị ảnh hưởng nên không có khả năng trả nợ ngân hàng, số nợ giờ đã lên đến hơn 10 tỷ. Nay chồng tôi qua đời do bệnh nặng, tôi muốn hỏi hợp đồng thế chấp tài sản do chồng tôi ký với Ngân hàng sẽ giải quyết như thế nào? Ngân hàng có thể  tịch thu căn nhà của vợ chồng tôi để xử lý số nợ 10 tỷ hay không?

Trả lời:
Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luật Sao Việt. Đối với trường hợp của bạn, chúng tôi tư vấn cho bạn như sau:

Nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm quy định chung tại Điều 49 Nghị định 21/2021/NĐ-CP như sau:

Một là, việc xử lý  tài sản bảo đảm phải được thực hiện đúng với thỏa thuận của các bên, quy định của Nghị định này và pháp luật liên quan.

Hai là, bên nhận bảo đảm thực hiện việc xử lý tài sản bảo đảm trên cơ sở thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm thì không cần có văn bản ủy quyền hoặc văn bản đồng ý của bên bảo đảm.

Ba là, trường hợp Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan quy định tài sản đang dùng để bảo đảm phải xử lý để bên bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác thì tài sản này được xử lý theo quy định đó.

Bốn là, việc bên nhận bảo đảm xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ không phải là hoạt động kinh doanh tài sản của bên nhận bảo đảm.

Việc xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp cá nhân chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được thực hiện theo quy định tại Điều 50 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19 tháng 3 năm 2021 của Chính phủ như sau:

“Trường hợp bên bảo đảm, người có nghĩa vụ được bảo đảm là cá nhân chết hoặc bị Tòa án ra quyết định tuyên bố là đã chết thì việc thực hiện nghĩa vụ và xử lý tài sản bảo đảm thực hiện theo hợp đồng bảo đảm hoặc thỏa thuận khác đã được xác lập trước thời điểm bên bảo đảm, người có nghĩa vụ được bảo đảm chết hoặc trước thời điểm bị Tòa án ra quyết định tuyên bố là đã chết.

Trường hợp xác định được người hưởng di sản mà di sản đó đang là tài sản bảo đảm, người quản lý di sản mà di sản đó đang là tài sản bảo đảm thì bên nhận bảo đảm phải thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm cho người này theo địa chỉ được xác định như thông báo cho bên bảo đảm quy định tại Điều 51 Nghị định này.

Trường hợp chưa xác định được người hưởng di sản mà di sản đó đang là tài sản bảo đảm, người quản lý di sản mà di sản đó đang là tài sản bảo đảm mà nghĩa vụ được bảo đảm đã đến hạn thực hiện thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.”

Như vậy, căn cứ quy định pháp luật nên trên thì nghĩa vụ trả nợ và xử lý tài sản thế chấp là căn nhà chung của hai vợ chồng sẽ được thực hiện theo hợp đồng thế chấp mà chồng bạn đã ký với ngân hàng. 

Tuy nhiên trường hợp của bạn, để xác định chính xác Ngân hàng có quyền xử lý tài sản bảo đảm là căn nhà chung của hai vợ chồng bạn hay không, chúng tôi cần có hồ sơ vụ việc cụ thể bao gồm những giấy tờ, hợp đồng mà chồng bạn đã ký kết với Ngân hàng. Vì không nắm được hồ sơ cụ thể nên tại đây, Luật Sao Việt chỉ đưa ra phương án tư vấn dựa trên các tình huống giả định để bạn có thể tham khảo:
Trường hợp 1: 

Hợp đồng thế chấp tài sản trước đây mà chồng bạn ký có xác nhận và chữ ký của bạn. 

Bởi vì căn nhà là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân nên để có thể đem ra thế chấp, ngân hàng và chồng bạn cần có chữ ký xác nhận của bạn trong hợp đồng thế chấp. Khi hợp đồng này có đầy đủ chữ ký của bạn và tuân thủ đúng các quy định của pháp luật thì hợp đồng này có hiệu lực và khi chồng bạn mất để lại số nợ hơn 10 tỷ, ngân hàng có quyền xử ký tài sản bảo đảm đối với khoản vay của chồng bạn.

Trường hợp này ngân hàng có quyền thu hồi căn nhà của hai vợ chồng.

Trường hợp 2:

Hợp đồng thế chấp tài sản không có chữ ký của bạn hoặc chữ ký không phải của bạn

Tuy trường hợp này hiếm khi xảy ra, tuy nhiên trên thực tế không phải không có những trường hợp tương tự. Trong trường hợp này, theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Luật hôn nhân và gia đình: “Trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch với người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng của luật này thì giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật mà người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi.” Do đó, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất nêu trên là vô hiệu.

Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Khi đó, ngân hàng trả lại giấy tờ nhà đất cho bạn và những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất khác của chồng bạn còn số nợ chồng bạn nợ ngân hàng thì bạn và những người đồng thừa kế khác có nghĩa vụ trả nợ trong phạm vi di sản chồng bạn để lại.

 

Trên đây là tư vấn của Luật Sao Việt đối với câu hỏi của bạn. Nếu trong quá trình thực hiện các thủ tục nếu gặp phải các vấn đề cần được giải đáp, bạn vui lòng liên hệ:

Liên hệ sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật:

- CÔNG TY LUẬT TNHH SAO VIỆT -            
"Sự bảo hộ hoàn hảo trong mọi quan hệ pháp luật"         

TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT: 1900 6243

Địa chỉ tư vấn trực tiếp: Số 525B Lạc Long Quân, P. Xuân La, Q. Tây Hồ, Hà Nội

Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: congtyluatsaoviet@gmail.com

Bình Luận

© 2018 SAOVIETLAW.COM Bản quyền thuộc về công ty Công Ty Luật TNHH Sao Việt

logo-footer