Tôi và chồng tôi kết hôn với nhau được 15 năm và có 3 đứa con, trong quá trình chung sống tạo lập được một mảnh đất và một căn nhà đứng tên tôi. Trong quá trình làm ăn 2 vợ chồng có vay của anh H số tiền là 2 tỷ đồng để mở một quán ăn. Do quá trình chung sống chồng tôi thường xuyên rượu chè, không chú tâm làm ăn nên chúng tôi xảy ra nhiều mâu thuẫn, chồng tôi nay đã bỏ đi biệt tích hơn 2 năm. Vì quán ăn không buôn bán được và tôi còn phải nuôi 3 cháu nhỏ nên giờ tôi không thể trả được nợ cũng như lãi hàng tháng cho anh H, tôi đã nhiều lần liên lạc với chồng để mong muốn cùng giải quyết số nợ, nhưng không nhận được phản hồi của chồng tôi, giờ tôi không biết chồng tôi đang ở đâu. Khối tài sản trên chỉ đứng tên mình tôi, vậy tôi có thể bán khối tài sản trên để thanh toán khoản nợ cũng như lấy tiền trang trải cuộc sống được không?

Trả lời:

Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến Công ty Luật TNHH Sao Việt, với câu hỏi của bạn, chúng tôi trả lời bạn như sau:

Thứ nhất, xác định xem giữa 2 vợ chồng có văn bản thoả thuận việc định đoạt tài sản chung không?

Theo quy định tại Luật HN & GĐ 2014: Tài sản chung của vợ chồng được hiểu là tài sản bao gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân. Theo thông tin chị cung cấp thì ngôi nhà và mảnh đất tuy chỉ đứng tên mình chị nhưng hình thành trong thời kỳ hôn nhân thì vẫn sẽ là tài sản chung của vợ chồng, chị muốn định đoạt khối tài sản này thì phải có sự đồng ý của chồng chị.

Căn cứ vào quy định tại Khoản 2 Điều 35 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014:

Điều 35. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung

……..

2. Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng trong những trường hợp sau đây:

a) Bất động sản;

b) Động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu;

c) Tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình.

Bước vào thời ký hôn nhân, các tài sản đều do vợ chồng cùng chung sức, ý chí, tình cảm tạo dựng nên. Khối tài sản chung của vợ chồng được dùng để đảm bảo lợi ích, nhu cầu chung của gia đình, đáp ứng việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cái. Do hai tài sản của chị đều thuộc Khoản 2 Điều 35 Luật HN&GĐ nên việc định đoạt phải có sự thoả thuận bằng văn bản của chị và chồng chị. Sở dĩ pháp luật quy định như vậy là vì những tài sản trên là những tài sản lớn, có giá trị và bắt buộc phải đăng ký quyền sở hữu. Khi tranh chấp có liên quan đến chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung thì văn bản thoả thuận của vợ chồng cũng là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về tài sản của vợ, chồng với nhau hoặc với bên thứ ba. Khi đó Toà án sẽ căn cứ vào các quy định của pháp luật hoặc thoả thuận của vợ chồng về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong việc thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản chung được lập trước và sau khi kết hôn để xem xét giải quyết một cách chính xác và khách quan.

Thứ hai, định đoạt tài sản chung trong trường hợp một bên biệt tích

Trong trường của chị, chị và chồng chị không có bất cứ văn bản thoả thuận nào về việc định đoạt tài sản chung, chồng chị lại đi biệt tích hơn 2 năm, theo quy định khoản 1 Điều 68 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định:

Điều 68. Tuyên bố mất tích

1. Khi một người biệt tích 02 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người đó mất tích.

2. Trường hợp vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.

Chồng chị đã biệt tích 2 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì chị có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố chồng chị mất tích. Khi đó, chị sẽ là người quản lý tài sản của chồng theo điều 65 Luật Hôn nhân và gia đình, => chị có nghĩa vụ thanh toán nợ đến hạn bằng tài sản của 2 vợ chồng theo quyết định của Tòa án..

Trường hợp 2 vợ chồng trong quá trình chung sống hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được thì chị có thể xin Toà án giải quyết ly hôn theo khoản 2 Điều 56 Luật HN&GĐ, sau đó yêu cầu toà án phân chia tài sản chung, nợ chung, mỗi người có trách nhiệm trả phần khoản nợ theo quyết định của Tòa. Đối với phần tài sản của chồng bạn, Khi “Tòa án giải quyết cho vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố mất tích ly hôn thì tài sản của người mất tích được giao cho con thành niên hoặc cha, mẹ của người mất tích quản lý; nếu không có những người này thì giao cho người thân thích của người mất tích quản lý; nếu không có người thân thích thì Tòa án chỉ định người khác quản lý tài sản.” => Người quản lý tài sản của chồng bạn có trách nhiệm trả phần nợ đó theo quyết định của Tòa.

Như vậy, chị muốn định đoạt được khối tài sản chung của hai vợ chồng thì trước hết, chị phải yêu cầu Tòa án giải quyết, ra quyết định tuyên bố chồng chị mất tích.  

 

Trên đây là tư vấn của Luật Sao Việt đối với câu hỏi của bạn. Nếu trong quá trình thực hiện các thủ tục nếu gặp phải các vấn đề cần được giải đáp, bạn vui lòng liên hệ:

Liên hệ sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật:

- CÔNG TY LUẬT TNHH SAO VIỆT -            
"Sự bảo hộ hoàn hảo trong mọi quan hệ pháp luật"         

TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT: 1900 6243

Địa chỉ tư vấn trực tiếp: Số 525B Lạc Long Quân, P. Xuân La, Q. Tây Hồ, Hà Nội

Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: congtyluatsaoviet@gmail.com

 

 

Bình Luận

© 2018 SAOVIETLAW.COM Bản quyền thuộc về công ty Công Ty Luật TNHH Sao Việt

logo-footer