Xin chào Luật Sao Việt, tôi tên là Phát , 34 tuổi. Mẹ (bà Nhi) và bố tôi (ông Hòa) chung sống với nhau từ năm 1979 tại huyện LN, tỉnh BG. Thời điểm đó bố mẹ tôi có tổ chức đám cưới và được hai bên gia đinh đồng ý nhưng không đăng ký kết hôn. Sau này bố mẹ tôi sinh được hai người con là anh trai tôi (sinh năm 1980) và tôi (sinh năm 1990).

Năm 2000, bố tôi bỏ nhà lên thành phố BG làm việc và ở cùng bà Nga tại đây nhưng gia đình tôi không có ý kiến gì về vấn đề này. Họ cũng có 01 người con chung sinh năm 2000. Quá trình chung sống bố mẹ tôi tạo lập được khối tài sản chung là diện tích 100m2 liền kề với mảnh vườn 300m2 mà bà Nga có được. Cả 02 diện tích đất này được cấp chung một Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ nhà bà Nga (có tên bố tôi).

Năm 2016 bố tôi mất. không để lại di chúc. Tôi được nghe nói rằng bà Nga có ý định khởi kiện gia đình tôi yêu cầu chia tài sản chung của bà và bố tôi. Xin cho tôi hỏi, tài sản này của bố tôi sẽ được xử lý ra sao? Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết trong trường hợp bà Nga khởi kiện ra tòa? Xin cảm ơn Công ty Luật Sao Việt.

Trả lời:

Chào bạn. Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Công ty Luật TNHH Sao Việt. Về thắc mắc của bạn, chúng tôi tư vấn cho bạn như sau:

  • Xác định quan hệ hôn nhân giữa ông Hòa – bà Nhi và ông Hòa – bà Nga:

Ông Hòa và bà Nhi chung sống từ thời điểm năm 1979 tức trước ngày 03/01/1987, căn cứ điểm c1 Điều 1 Nghị quyết số 02/NQ-TANDTC của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 23/12 về hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đinh năm 2000 thì người đang có vợ hoặc chồng là người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Tức quan hệ giữa bố và mẹ bạn là quan hệ vợ chồng được pháp luật thừa nhận.

Ông Hòa chung sống như vợ chồng với bà Nga từ năm 2000 sau đó nhập hộ khẩu về nhà bà Nga (điều này được thể hiện  ở việc giấy chứng nhận quyền sử dụng mảnh đất trên có cả tên ông Hòa).

Tuy mẹ bạn cùng các con không có ý kiến gì về vấn đề này nhưng việc nhập hộ khẩu về nhà bà Nga không đồng nghĩa với việc chung sống của ông Hòa và bà Nga được pháp luật thừa nhận.

Mặt khác, việc chung sống của bố bạn với bà N khi đang tồn tại hôn nhân hợp pháp với mẹ bạn là trái pháp luật, căn cứ điểm c, khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình 2014: “Cấm các hành vi sau đây:….c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;…”

Khi bố bạn mất thì quan hệ nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn giữa ông và bà Nga chấm dứt. Khi một bên chết, quan hệ giữa bên chết và con chung về nghĩa vụ nuôi dưỡng và cấp dưỡng cũng chấm dứt. Việc ông Hải mất không đặt ra vấn đề thừa kế đối với người chung sống như vợ chồng là bà Nga vì họ không thuộc trường hợp thừa kế theo Điều 651 Bộ luật dân sự 2015.

  • Quan hệ tài sản giữa ông Hòa – bà Nhi và quan hệ tài sản giữa ông Hòa – bà Nga:

Phần tài sản của ông Hòa và bà Nhi thuộc tài sản chung hợp nhất khi hai ông bà được pháp luật thừa nhận quan hệ vợ chồng (như đã phân tích ở trên). Việc này được căn cứ vào Điều 213 Bộ luật Dân sự 2015: “Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia”. Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đinh 2014 cũng khẳng định “Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đinh, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng”

Ngược lại, khi quan hệ chung sống như vợ chồng của ông Hòa và bà Nga không được thừa nhận thì tài sản chung của hai người đơn thuần là tài sản chung theo phần. Tại thời điểm ông Hòa và bà Nga sống chung với nhau thì quan hệ hôn nhân của ông Hòa và bà Nhi vẫn tồn tại, cho nên phần tài sản của ông Hòa trong khối tài sản chung của ông Hòa và bà Nga sẽ được coi là tài sản chung vợ chồng ông Hòa bà Nhi.

  • Đối tượng được hưởng thừa kế di sản là quyền sử dụng đất của ông Hòa:

Sự kiện ông Hòa mất làm phát sinh quan hệ thừa kế. Ông Hòa mất không để lại di chúc, di sản thừa kế của ông sẽ được chia theo pháp luật. Căn cứ Điều 651 Bộ luật dân sự 2015: “1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây: a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;…” thì những người sau sẽ được một suất thừa kế theo pháp luật bằng nhau là bà Nhi (vợ hợp pháp của ông Hòa), các con là bạn, anh trai và người con chung sinh năm 2001 giữa ông Hòa và bà Nga (vì đều là con đẻ của ông Hòa).

  • Xác định tòa án có thẩm quyền giải quyết

Khi bà Nga khởi kiện chia khối tài sản chung, bị đơn trực tiếp liên quan là ông Hòa đã mất. Bà Ngà kiện bà Nhi cùng hai con là những người đồng thừa kế theo pháp luật của ông Hải. Trong trường hợp này, tài sản chung của bà Nga và ông Hòa thuộc sở hữu chung của các thành viên gia đinh (theo Điều 212 Bộ luật Dân sự 2015). Khi một người bên nam (nữ) chết, quyền sở hữu của người đó đối với phần tài sản trong khối tài sản chung với bên còn sống chấm dứt do chuyển quyền sở hữu thông qua việc thừa kế cho những người thừa kế của người chết (Điều 238 Bộ luật dân sự 2015). Các tranh chấp về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung giữa bên còn sống và những người thừa kế của người chết là tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản thuộc khoản 1 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; trong khi tranh chấp về nghĩa vụ hợp đồng thuộc khoản 2 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Như vậy, việc bà Nga kiện bà Nhi và các con của ông bà là bạn và anh trai bạn ra Tòa yêu cầu chia tài sản chung được xác định là tranh chấp chia tài sản chung. Trong trường hợp này, đối tượng tranh chấp là quyền sử dụng đất một loại bất động sản. Căn cứ khoản 2 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và căn cứ điểm c, khoản 1 Điều 39 quy định “Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết”. Do đó, vụ ản thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND thành phố BG, tỉnh BG.   

Trên đây là tư vấn của Luật Sao Việt đối với câu hỏi của bạn. Nếu trong quá trình thực hiện các thủ tục nếu gặp phải các vấn đề cần được giải đáp, bạn vui lòng liên hệ:

Liên hệ sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật:

- CÔNG TY LUẬT TNHH SAO VIỆT -            
"Sự bảo hộ hoàn hảo trong mọi quan hệ pháp luật"         

TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT: 1900 6243

Địa chỉ tư vấn trực tiếp: Số 525B Lạc Long Quân, P. Xuân La, Q. Tây Hồ, Hà Nội

Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: congtyluatsaoviet@gmail.com

      

Bình Luận

© 2018 SAOVIETLAW.COM Bản quyền thuộc về công ty Công Ty Luật TNHH Sao Việt

logo-footer