Cụ tôi có 2 người vợ đều không đăng ký kết hôn, người vợ đầu sống chung từ năm 1945 có với nhau 4 người con, người vợ sau sống chung từ năm 1959 có với nhau 3 người con. Trong thời gian sống cùng nhau, cụ bà thứ 2 vẫn tôn tạo và chăm nom nhà cửa. Khi cụ ông bị bệnh chỉ có cụ bà 2 chăm sóc, khi cụ ông mất không để lại di chúc và có tài sản là 1 thửa đất diện tích 600m2, nguồn gốc thửa đất do cha mẹ cụ ông để lại từ xa xưa. Giờ các con của vợ đầu nói rằng cụ bà 2 không có quyền gì đối với thửa đất này, chỉ có vợ cả mới có quyền. Vậy các con của vợ đầu nói như vậy có đúng ko?
Ảnh minh hoạ, nguồn: Internet.
Trả lời:
Cảm ơn bạn đã quan tâm và gửi câu hỏi về Công ty Luật TNHH Sao Việt, đối với thắc mắc của bạn, chúng tôi xin được giải đáp như sau:
1. Căn cứ pháp lý:
Nghị quyết 02/1990 Nghị quyết của hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao ngày 19 tháng 10 năm 1990 hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp lệnh thừa kế:
"4. VỀ NHỮNG NGƯỜI THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
a) Trong trường hợp một người có nhiều vợ (trước ngày 13-01-1960 - ngày công bố Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 - đối với miền Bắc; trước ngày 25-3-1977 - ngày công bố danh mục văn bản pháp luật được áp dụng thống nhất trong cả nước - đối với miền Nam và đối với cán bộ, bộ đội có vợ ở miền Nam sau khi tập kết ra Bắc lấy thêm vợ mà việc kết hôn sau không bị huỷ bỏ bằng bản án có hiệu lực pháp luật), thì tất cả các người vợ đều là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng và ngược lại, người chồng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ."
2. Xác định người thừa kế hợp pháp:
Theo quy định tại Mục 4.a Nghị quyết 02/1990/NQ-HĐTP, trong trường hợp một người có nhiều vợ trước ngày 13/01/1960 (đối với miền Bắc) hoặc trước ngày 25/3/1977 (đối với miền Nam), thì tất cả các người vợ đều được xác định là người thừa kế hàng thứ nhất của người chồng.
Trường hợp của cụ ông nhà bạn, cụ ông chung sống với cụ bà thứ nhất từ năm 1945 và với cụ bà thứ hai từ năm 1959. Cả hai thời điểm này đều trước ngày 13/01/1960 (đối với miền Bắc), do đó, theo quy định trên, cả cụ bà thứ nhất và cụ bà thứ hai đều là vợ hợp pháp và đều có quyền thừa kế di sản của cụ ông.
Ngoài hai cụ bà, các con ruột của cụ ông (bao gồm 4 người con với cụ bà thứ nhất và 3 người con với cụ bà thứ hai) cũng thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định của pháp luật.
3. Quyền tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959
Điều 15 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 quy định: "Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới."
Vì vậy, tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung của vợ chồng.
Thửa đất 600m2 được cha mẹ cụ ông để lại từ xa xưa, có trước khi cả 2 quan hệ hôn nhân được hình thành. Theo quy định tại Điều 15 Luật HNGĐ 1959, tài sản trên là tài sản chung của cả 3 cụ và mỗi người có quyền sở hữu ngang nhau. Cụ thể trong trường hợp này thửa đất sẽ được chia 3, mỗi cụ 1 phần bằng nhau.
4. Về di sản thừa kế và nguyên tắc phân chia
· Cụ ông mất không để lại di chúc, nên di sản (1/3 thửa đất 600m²) sẽ được chia theo pháp luật.
· Căn cứ vào Điều 650 BLDS 2015, di sản sẽ được chia đều cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, bao gồm hai cụ bà và bảy người con.
5. Kết luận:
Việc các con của cụ bà thứ nhất cho rằng cụ bà thứ hai không có quyền thừa kế là không đúng với quy định pháp luật. Theo Nghị quyết 02/1990/NQ-HĐTP, cụ bà thứ hai vẫn là người thừa kế hợp pháp, có quyền hưởng một phần di sản do cụ ông để lại.
Ngoài ra, trong thời gian chung sống, nếu cụ bà thứ hai có công sức duy trì, tôn tạo, quản lý tài sản, bà có thể yêu cầu xem xét để hưởng phần công sức đóng góp này theo quy định của pháp luật về thừa kế.
Trên đây là quan điểm pháp lý dựa trên quy định hiện hành. Các bên liên quan nên xem xét và thực hiện phân chia di sản theo đúng quy định pháp luật để tránh tranh chấp không cần thiết.
=================================================================================
- CÔNG TY LUẬT TNHH SAO VIỆT -
"Sự bảo hộ hoàn hảo trong mọi quan hệ pháp luật"
TỔNG ĐÀI TƯ VẤN PHÁP LUẬT: 1900 6243
Địa chỉ tư vấn trực tiếp: Số 525B Lạc Long Quân, P. Xuân La, Q. Tây Hồ, Tp. Hà Nội
Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: congtyluatsaoviet@gmail.com