Luật đất đai năm 2024 đã bổ sung thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai cho Trọng tài thương mại, nhưng chỉ giới hạn trong các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại liên quan đến đất đai. Điều này mở ra một cơ chế giải quyết linh hoạt, song cũng đặt ra những yêu cầu về thỏa thuận trọng tài hợp lệ và giới hạn phạm vi áp dụng so với phương thức giải quyết tranh chấp qua Tòa án và UBND cấp có thẩm quyền hiện nay.
Trong thực tế khi mua đất, người mua thường chỉ quan tâm đến giá cả, vị trí mà không kiểm tra kỹ các điều kiện pháp lý liên quan, dẫn đến tình huống khi không thể tách thửa và sang tên mới phát hiện diện tích đất đã mua không đủ điều kiện để thực hiện. Nhiều người cho rằng chỉ cần hợp đồng đã được công chứng thì đương nhiên sẽ có hiệu lực và hợp pháp, tuy nhiên thực tế không đơn giản như vậy.
Xin luật sư tư vấn giúp trường hợp của tôi. Tôi có mua đất của một người, đã lập hợp đồng mua bán nhưng chưa công chứng. Giờ chủ nhà mới báo đất này đã có thông báo thu hồi đất, vậy bây giờ có được mua bán đất này nữa không? Có khả năng ra sổ không? Chủ nhà đang bảo tôi là họ sẽ khởi kiện để yêu cầu huỷ thông báo thu hồi đất? Vậy có khả năng thắng kiện không? Mong nhận được giải đáp của luật sư. Tôi xin cảm ơn.
Không phải đến khi có Nghị định 21/2021/NĐ-CP thì cá nhân mới có quyền nhận thế chấp quyền sử dụng đất mà trước đây tại những Bộ luật dân sự cũ như BLDS 2005 hay BLDS hiện hành năm 2015 cũng không có quy định cấm cá nhân nhận thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất.
Ông A sở hữu một mảnh đất tại quê nhưng chưa làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cách đây hai năm, ông A ký hợp đồng cho ông B thuê mảnh đất này để canh tác, với thời hạn thuê là 5 năm. Tuy nhiên, sau hai năm kể từ khi ký hợp đồng , ông A đột ngột qua đời và để lại di chúc cho người thừa kế duy nhất của ông A là ông C, trong di chúc có nội dung “khi ông A chết ông C tiếp tục hợp đồng với ông B".
Ông A sở hữu một mảnh đất tại quê nhưng chưa làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cách đây hai năm, ông A ký hợp đồng cho ông B thuê mảnh đất này để canh tác, với thời hạn thuê là 5 năm. Tuy nhiên, sau hai năm kể từ khi ký hợp đồng , ông A đột ngột qua đời và để lại di chúc cho người thừa kế duy nhất của ông A là ông C, trong di chúc có nội dung “khi ông A chết ông C tiếp tục hợp đồng với ông B".
Gia đình tôi đã nhiều lần yêu cầu ông An trả lại GCNQSDĐ nhưng ông không thực hiện. Vì vậy, tôi đã khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu ông An trả lại giấy tờ này. Tuy nhiên, Tòa án đã ra quyết định trả lại đơn khởi kiện, với lý do rằng tranh chấp này không thuộc phạm vi giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự.
Trong cuộc sống có rất nhiều trường hợp vợ chồng được cha mẹ hai bên cho tài sản giá trị lớn như quyền sử dụng đất, vàng bạc, cổ phần trong công ty,... để làm sính lễ hoặc của hồi môn cho con cái. Những tài sản này nếu phải chia khi ly hôn sẽ được chia theo tỷ lệ như thế nào? Đây có lẽ cũng là thắc mắc chung của nhiều người. Vì vậy, cùng tìm hiểu về vấn đề này qua bài viết dưới đây của Luật Sao Việt nhé!
Theo quy định của Luật đất đai, việc chuyển quyền sử dụng đất từ người này sang người khác được thực hiện thông qua những hình thức, bao gồm: chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho và góp vốn quyền sử dụng đất (khoản 12 Điều 3 Luật đất đai năm 2024). Trong đó, việc chuyển quyền sử dụng đất đối với đất nông nghiệp được đặt ra những điều kiện riêng đặc thù, bên cạnh những quy định chung.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, một hoặc các bên tham gia tranh chấp đất đai lại không có loại giấy tờ này, dẫn đến những câu hỏi về tính hợp pháp của quyền khởi kiện và tác động của việc này đối với quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án. Vậy, khi đất không có giấy chứng nhận, làm thế nào để có thể khởi kiện? Tham khảo ngay bài viết dưới đây của Luật Sao Việt nhé.