Luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam được ban hành lần đầu tiên vào năm 2005, từ đó đến nay, đất nước đã có nhiều thay đổi mới, đặc biệt là sự phát triển vượt trội của khoa học công nghệ. Xu hướng phát triển của Việt Nam và thế giới khiến Luật sở hữu trí tuệ 2005 dần bộc lộ những điểm không còn phù hợp với thời cuộc. Chính vì vậy, ngày 16/6/2022, Quốc hội đã ban hành Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành. Một trong những thay đổi đáng chú ý là các quy định về quyền tác giả.

a) Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi bổ sung 2022 đã bổ sung các quy định làm rõ hơn khái niệm về tác giả, đồng tác giả :

Điều 12a. Tác giả, đồng tác giả

1. Tác giả là người trực tiếp sáng tạo tác phẩm. Trường hợp có từ hai người trở lên cùng trực tiếp sáng tạo tác phẩm với chủ ý là sự đóng góp của họ được kết hợp thành một tổng thể hoàn chỉnh thì những người đó là các đồng tác giả.

2. Người hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người khác sáng tạo tác phẩm không phải là tác giả, đồng tác giả.

3. Việc thực hiện quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm có đồng tác giả phải có sự thỏa thuận của các đồng tác giả, trừ trường hợp tác phẩm có phần riêng biệt có thể tách ra sử dụng độc lập mà không làm phương hại đến phần của các đồng tác giả khác hoặc luật khác có quy định khác.”.

Như vậy, khi so với Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành, Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 đã bổ sung quy định đồng tác giả là trường hợp có từ hai người trở lên cùng trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm kèm theo điều kiện là đóng góp của họ được kết hợp thành một tổng thể hoàn chỉnh một cách chủ ý.

b) Bổ sung quyền nhân thân và làm rõ quyền tài sản của tác giả:

Nếu như trước đây tác giả chỉ có thể chuyển giao 1 quyền nhân thân duy nhất là quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm thì kể từ ngày 01/01/2023 khi Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 có hiệu lực, theo khoản 5 Điều 1 Luật này, tác giả có quyền chuyển quyền sử dụng quyền đặt tên cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản. 

Việc sửa đổi này là bước tạo điều kiện dễ dàng hơn, rộng mở hơn cho quá trình chuyển nhượng quyền tác giả. Tuy nhiên, về mặt cá nhân tác giả, sửa đổi này có thể sẽ gây nên những bất lợi về quyền của tác giả đối với việc đặt tên tác phẩm trong tương lai. Cụ thể, theo luật mới, tác giả có thể chuyển nhượng quyền đặt tên tác phẩm cho chủ sở hữu quyền tác giả và mất hoàn toàn quyền kiểm soát với tên tác phẩm. Luật không quy định cụ thể về các nội dung chuyển nhượng quyền đặt tên, do đó có thể hiểu việc này phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên. Vậy nếu hai bên không thỏa thuận rõ ràng về việc toàn quyền quyết định đặt lại tên của chủ sở hữu thì mỗi lần muốn sửa đổi tên tác phẩm, chủ sở hữu có phải xin xác nhận đồng ý của tác giả hay không? Nếu cần xin xác nhận nhưng tác giả không đồng ý với tên sửa đổi của chủ sở hữu thì giải quyết như thế nào? Quy định này chắc chắn sẽ gây nảy sinh nhiều tranh chấp trong tương lai đối với vấn đề đặt lại tên cho tác phẩm. Mặt khác, nếu như tác giả chuyển nhượng hoàn toàn quyền đặt tên và chủ sở hữu có quyền đặt lại tên mà không cần xin phép tác giả, thì khả năng tác giả không hề biết về việc tác phẩm bị đổi tên là rất cao. Việc tác giả không được xin phép mỗi khi tác phẩm của mình bị đổi tên là một sự thiếu tôn trọng đối với quyền của cá nhân tác giả, đồng thời đi ngược lại với sứ mệnh ra đời của Luật sở hữu trí tuệ là để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của con người.

Ngoài ra, khoản 5 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 cũng làm rõ hơn quyền tài sản của tác giả bao gồm:

- Làm tác phẩm phái sinh;

- Biểu diễn tác phẩm trước công chúng trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các bản ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào tại địa điểm mà công chúng có thể tiếp cận được nhưng công chúng không thể tự do lựa chọn thời gian và từng phần tác phẩm;

- Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hoặc một phần tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, trừ trường hợp tổ chức, cá nhân sao chép tác phẩm chỉ để thực hiện các quyền khác theo quy định của Luật này; sao chép tạm thời theo một quy trình công nghệ, trong quá trình hoạt động của các thiết bị để truyền phát trong một mạng lưới giữa các bên thứ ba thông qua trung gian hoặc sử dụng hợp pháp tác phẩm, không có mục đích kinh tế độc lập và bản sao bị tự động xóa bỏ, không có khả năng phục hồi lại;

- Phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng thông qua bán hoặc hình thức chuyển giao quyền sở hữu khác đối với bản gốc, bản sao tác phẩm dưới dạng hữu hình, trừ trường hợp tổ chức, cá nhân phân phối lần tiếp theo, nhập khẩu để phân phối đối với bản gốc, bản sao tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc cho phép thực hiện việc phân phối;

- Phát sóng, truyền đạt đến công chúng tác phẩm bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác, bao gồm cả việc cung cấp tác phẩm đến công chúng theo cách mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do họ lựa chọn;

- Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính, trừ trường hợp chương trình máy tính đó không phải là đối tượng chính của việc cho thuê.

c) Quy định các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm đến quyền tác giả:

Theo quy định tại khoản 7 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022, các trường hợp sau đây khi sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền bản quyền nhưng phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm bao gồm:

- Tự sao chép một bản để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại. Quy định này không áp dụng trong trường hợp sao chép bằng thiết bị sao chép;

- Sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại;

- Sử dụng hợp lý tác phẩm để minh họa trong bài giảng, ấn phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng nhằm mục đích giảng dạy. Việc sử dụng này có thể bao gồm việc cung cấp trong mạng máy tính nội bộ với điều kiện phải có các biện pháp kỹ thuật để bảo đảm chỉ người học và người dạy trong buổi học đó có thể tiếp cận tác phẩm này;

- Sử dụng tác phẩm trong hoạt động công vụ của cơ quan nhà nước;

- Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận, giới thiệu hoặc minh họa trong tác phẩm của mình; để viết báo, sử dụng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát sóng, phim tài liệu;

- Sử dụng tác phẩm trong hoạt động thư viện không nhằm mục đích thương mại, bao gồm sao chép tác phẩm lưu trữ trong thư viện để bảo quản, với điều kiện bản sao này phải được đánh dấu là bản sao lưu trữ và giới hạn đối tượng tiếp cận theo quy định của pháp luật về thư viện, lưu trữ; sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép cho người khác phụ vụ nghiên cứu, học tập; sao chép hoặc truyền tác phẩm được lưu giữ để sử dụng liên thông thư viện thông qua mạng máy tính, với điều kiện số lượng người đọc tại cùng một thời điểm không vượt quá số lượng bản sao của tác phẩm do các thư viện nói nên nắm giữ, trừ trường hợp được chủ sở hữu quyền cho phép và không áp dụng trong trường hợp tác phẩm đã được cung cấp trên thị trường dưới dạng kỹ thuật số;

- Biểu diễn tác phẩm sân khấu, âm nhạc, múa và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, hoạt động tuyên truyền cổ động không nhằm mục đích thương mại;

- Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm mỹ thuật, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó, không nhằm mục đích thương mại;

- Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng cá nhân, không nhằm mục đích thương mại;

- Sao chép bằng cách đăng tải lại trên báo, ấn phẩm định kỳ, phát sóng hoặc các hình thức truyền thông khác tới công chúng bài giảng, bài phát biểu, bài nói khác được trình bày trước công chúng trong phạm vi phù hợp với mục đích thông tin thời sự, trừ trường hợp tác giả tuyên bố giữ bản quyền;

- Chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phát sóng sự kiện nhằm mục đích đưa tin thời sự, trong đó có sử dụng tác phẩm được nghe thấy, nhìn thấy trong sự kiện đó;

- Người khuyết tật nhìn, người khuyết tật không có khả năng đọc chữ in và người khuyết tật khác không có khả năng tiếp cận tác phẩm để đọc theo cách thông thường, người nuôi dưỡng, chăm sóc cho người khuyết tật, tổ chức đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ sử dụng tác phẩm.

Việc sử dụng tác phẩm nói trên không được mâu thuẫn với việc khai thác bình thường tác phẩm và không gây thiệt hại một cách bất hợp lý đến lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.

Ngoài ra, khoản 7 Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi 2022 cũng bổ sung trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền, phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm khi tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép định hình trên bản ghi âm, ghi hình công bố nhằm mục đích thương mại thì tổ chức, cá nhân sử dụng bản ghi âm, ghi hình này trong hoạt động kinh doanh, thương mại không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền cho chủ sở hữu quyền tác giả của tác phẩm đó theo thỏa thuận kể từ khi sử dụng; trường hợp không đạt được thỏa thuận thì thực hiện theo quy định của Chính phủ.

Một trong những điểm mới nổi bật và tiến bộ đặc biệt là việc ghi nhận “nguyên tắc cạn quyền” trong khoản 3 Điều 10:

“3. Chủ sở hữu quyền tác giả không có quyền ngăn cấm tổ chức, cá nhân khác thực hiện các hành vi sau đây:

a) Sao chép tác phẩm chỉ để thực hiện các quyền khác theo quy định của Luật này; sao chép tạm thời theo một quy trình công nghệ, trong quá trình hoạt động của các thiết bị để truyền phát trong một mạng lưới giữa các bên thứ ba thông qua trung gian hoặc sử dụng hợp pháp tác phẩm, không có mục đích kinh tế độc lập và bản sao bị tự động xóa bỏ, không có khả năng phục hồi lại;

b) Phân phối lần tiếp theo, nhập khẩu để phân phối đối với bản gốc, bản sao tác phẩm đã được chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện hoặc cho phép thực hiện việc phân phối”.

Thuyết cạn quyền cho rằng khi một sản phẩm (hay hàng hóa) nào đó được sản xuất dựa trên các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ như quyền tác giả (bản quyền), nhãn hiệu, sáng chế,… và được đưa ra thị trường lần đầu tiên bởi chính chủ sở hữu của các quyền sở hữu trí tuệ đó hay dưới sự cho phép của họ thì chủ sở hữu của các quyền sở hữu trí tuệ sẽ không còn quyền kiểm soát, can thiệp vào quá trình lưu thông tiếp theo của những sản phẩm, hàng hóa này. Đây là lý thuyết phổ biến trong luật sở hữu trí tuệ các nước và được sử dụng trong thông lệ quốc tế. Tuy nhiên trước đó Luật SHTT của Việt Nam không hề ghi nhận nguyên tắc này và đến Luật SHTT 2022, nguyên tắc này mới được ghi nhận. 

d) Bổ sung hành vi xâm phạm quyền tác giả:

Điều 28 của Luật SHTT đã được sửa đổi để quy định chi tiết hơn các hành vi xâm phạm quyền tác giả trong đó bổ sung các hành vi mới:

5. Sản xuất, phân phối, nhập khẩu, chào bán, bán, quảng bá, quảng cáo, tiếp thị, cho thuê hoặc tàng trữ nhằm mục đích thương mại các thiết bị, sản phẩm hoặc linh kiện, giới thiệu hoặc cung cấp dịch vụ khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị, sản phẩm, linh kiện hoặc dịch vụ đó được sản xuất, sử dụng nhằm vô hiệu hóa biện pháp công nghệ hữu hiệu bảo vệ quyền tác giả.

6. Cố ý xóa, gỡ bỏ hoặc thay đổi thông tin quản lý quyền mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả khi biết hoặc có cơ sở để biết việc thực hiện hành vi đó sẽ xúi giục, tạo khả năng, tạo điều kiện thuận lợi hoặc che giấu hành vi xâm phạm quyền tác giả theo quy định của pháp luật.

7. Cố ý phân phối, nhập khẩu để phân phối, phát sóng, truyền đạt hoặc cung cấp đến công chúng bản sao tác phẩm khi biết hoặc có cơ sở để biết thông tin quản lý quyền đã bị xóa, gỡ bỏ, thay đổi mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả; khi biết hoặc có cơ sở để biết việc thực hiện hành vi đó sẽ xúi giục, tạo khả năng, tạo điều kiện thuận lợi hoặc che giấu hành vi xâm phạm quyền tác giả theo quy định của pháp luật.

8. Không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ quy định để được miễn trừ trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian quy định tại khoản 3 Điều 198b của Luật này

Đây có thể xem là giải pháp thể hiện nỗ lực của nhà làm luật nhằm ngăn chặn những thách thức đến từ công nghệ hiện đại nhằm bảo vệ tốt hơn quyền tác giả khi những công nghệ mới ngày càng tinh vi, cho phép người dùng sao chép và sử dụng một cách dễ dàng tác phẩm được bảo vệ bởi luật bản quyền mà không thông qua sự chấp thuận của tác giả. Quy định ghi nhận quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian trong Luật SHTT là một quy định mới cực kỳ cần thiết, quy định này yêu cầu doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian phải chịu trách nhiệm nếu có liên quan đến hành vi xâm phạm quyền tác giả, các trách nhiệm mà doanh nghiệp cần thực hiện như gỡ bỏ, dừng đường truyền và xóa nội dung thông tin xâm phạm quyền tác giả, cung cấp thông tin khách hàng theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và đặc biệt là trực tiếp chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có hành vi xâm phạm quyền tác giả (trừ các trường hợp được miễn trừ).

 
Bình Luận

© 2018 SAOVIETLAW.COM Bản quyền thuộc về công ty Công Ty Luật TNHH Sao Việt

logo-footer